✨Pyrocephalus obscurus
Pyrocephalus obscurus là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc bộ Sẻ trong họ Đớp ruồi bạo chúa được tìm thấy trên khắp Nam Mỹ và miền Nam Bắc Mỹ. Màu đỏ son là một đặc điểm giúp chúng trở nên nổi bật so với những loài cùng họ. Chim trống có đỉnh đầu, ngực cùng phần bụng đỏ tươi với cánh và đuôi màu nâu; trong khi chim mái có màu nâu sẫm nên dễ bị nhầm lẫn với Sayornis saya. Khi hót, Pyrocephalus obscurus phát ra âm thanh pit pit pit pi-trờ-ờ-ờ-iiii-trờ-ờ-ờ. Âm thanh này thường có giai điệu khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập lãnh thổ riêng. Loài này ưa thích những vùng đất ven sông lẫn môi trường bán mở, ăn côn trùng và săn mồi ngay trong khi đang bay. Quá trình thay lông của chúng thường bắt đầu vào mùa hạ và diễn ra trong vài tháng.
Về mặt tổ chức xã hội, Pyrocephalus obscurus có lối sống đơn phối ngẫu, nhưng thỉnh thoảng lại tham gia giao phối ngoại đôi. Trong một vài trường hợp, những cá thể mái còn thực hiện ký sinh nuôi dưỡng, khi đẻ trứng trong tổ của một cá thể khác. Tổ của loài chim này nông, trống trải, có dạng hình cái chén. Trứng của chúng có màu trắng xen lẫn vài đốm nâu. Trong mùa sinh sản, ấp trứng, con trống sẽ nuôi và chăm con mái. Thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 6. Mỗi lứa trứng chứa từ hai đến ba quả. Chim non mới lọt lòng sẽ được cả bố mẹ cùng nuôi dưỡng. Sau 15 ngày, những con chim non này sẽ đủ lông đủ cánh để sẵn sàng rời tổ.
Loài này được mô tả lần đầu tiên vào cuối những năm 1830 trong các chuyến thám hiểm của Charles Darwin. Năm 2016, các nhà khoa học thay đổi nguyên tắc phân loại chi Pyrocephalus, tách một số phân loài của Pyrocephalus obscurus thành những loài riêng biệt, trong đó có cả chim đớp ruồi San Cristóbal vốn không còn tồn tại. Do số lượng cá thể vẫn còn dao động từ vài triệu đến vài chục triệu nên Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế coi Pyrocephalus obscurus là một loài ít được quan tâm, bất chấp con số này đang dần suy giảm do tác động của việc mất môi trường sống.
Phân loại học
thế=Preserved dead bird with tags|trái|nhỏ| Một mẫu vật Pyrocephalus obscurus ở bảo tàng từ năm 1890 Họ Đớp ruồi bạo chúa là một nhóm các loài thuộc bộ Sẻ hiện diện duy nhất ở châu Mỹ. Các thành viên của họ này đa phần đều có màu sắc không mấy nổi trội. Trong đó, phân họ Fluvicolinae bao gồm các chi Pyrocephalus, Contopus, Empidonax và Sayornis. Có thể chúng từng thuộc về một tổ tiên chung với chi Contopus hoặc Xenotriccus, nhưng vì lý do nào đó mà bị phân nhánh ra. Về mặt hình thái học, Pyrocephalus có liên quan chặt chẽ nhất với Sayornis. Tuy nhiên, phân tích di truyền lại chỉ ra rằng chi chim này có liên quan chặt chẽ hơn với Fluvicola. Loài này sau đó được nhà động vật học người Anh George Robert Gray định danh là Pyrocephalus rubinus vào năm 1840, dựa trên mẫu vật khác của Darwin lấy từ quần đảo James. Năm 2016, một nghiên cứu di truyền phân tử đã thay đổi nguyên tắc phân loại của loài, tách ra một số loài mới và tái định danh loài này là Pyrocephalus obscurus. Trước khi nghiên cứu, Pyrocephalus obscurus được coi là một chi đơn loài, nhưng ngày nay, các nhà phân loại học (bao gồm Hiệp hội Sinh vật học Quốc tế) đã tách ba trong số các phân loài của chúng ra thành những loài riêng biệt. Đó là chim đớp ruồi Darwin, chim đớp ruồi San Cristóbal và chim đớp ruồi đỏ tươi.
Tên chi Pyrocephalus trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "đầu lửa" hoặc "đầu ngọn lửa". Danh pháp hai phần obscurus trong tiếng Latin có nghĩa là "tối" hoặc "sẫm". Chim đớp ruồi đỏ son có khả năng là đã tiến hóa vào khoảng 1,15 triệu năm trước, tách ra khỏi một số loài trên quần đảo Galápagos vào thời điểm cách nay 820 nghìn năm. Sau đó, khoảng 560 nghìn năm trước, các phân loài của loài này ở Nam Mỹ chính thức hợp nhất lại. Đến 310 nghìn năm tiếp theo, các cá thể ở Bắc Mỹ lại tách ra từ các cá thể ở Nam Mỹ, tạo ra một phân loài mới. Đây là loài dị hình giới tính rất rõ rệt. Con trống có màu đỏ tươi, bộ lông màu nâu sẫm, trong khi con mái được bao phủ bởi màu nâu xám, với phần bụng màu hồng đào và phần trên cánh màu xám. Tùy từng cá thể mà màu đỏ của loài chim này có thể khác nhau, nhưng phổ biến vẫn là đỏ son, đỏ tươi hoặc màu cam. Ở những cá thể trống, đỉnh đầu, ngực và phần thân dưới có màu đỏ, còn vùng trước mắt, gáy, lông che tai, cánh, phần thân trên cùng với đuôi lại có màu nâu hoặc nâu đen. Con mái có đỉnh đầu màu xám cùng lông che tai, cánh và đuôi màu xám. Lông bay và lông bao phủ ở cánh có màu xám nhạt, tạo hiệu ứng tương phản màu sắc. Các lông trên mắt có màu sáng hơn. Phần bụng có màu trắng, nhưng đỏ nhạt dần xuống phía dưới. Những cá thể tiền trưởng thành ở cả hai giới có hình dạng tương đồng với chim mái trưởng thành, nhưng vẫn có đôi chút khác biệt. Cụ thể, phần bụng chim trống có màu đỏ sáng hơn nhiều, trong khi chim mái lại có màu vàng nhạt. Bộ lông của loài chim này hoàn không đổi màu trong suốt cả năm ở cả hai giới trống, mái lẫn những cá thể tiền trưởng thành. Bên cạnh đó, chúng còn có một nhúm lông mỏng trên đỉnh đầu, có thể dựng lên khi cần thiết. Con trống trông nổi bật hơn so với các loài khác, nhưng con mái dễ bị nhầm lẫn với Sayornis saya do màu sắc nâu xám của chúng. thế=Flying bird on blue sky|trái|nhỏ| Một cá thể đang khoe [[lông bay]]
Tiếng hót
Theo nhà điểu học David Sibley, khi Pyrocephalus obscurus đậu trên cành, chúng phát ra tiếng hót có dạng pit pit pit pi-trờ-ờ-ờ-iiii-trờ-ờ-ờ, trong khi Phòng nghiên cứu chim chóc, trực thuộc Đại học Cornell lại cho rằng âm thanh ấy có dạng chinh-ktinh-ờ-lê-tinh-kơ, với trọng tâm nằm ở âm tiết cuối cùng. Khác với chim trống, chim mái không hót liên tục. Tại các vùng đô thị, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn cũng phần nào tác động đến chất lượng tiếng hót của loài chim này. Có một số lượng lớn cá thể ở thành phố Mexico thường hót lớn và lâu hơn khi tiếng ồn xung quanh tăng lên. Chim đớp ruồi đỏ son không hót quanh năm. Những cá thể sống ở Arizona hay Texas chỉ hót từ cuối tháng 2 đến tháng 7. Những cá thể ở Bắc Mỹ hầu hết là chim di trú. Chúng chỉ di cư đến rìa của khu vực, trong khi những cá thể sống ở Nam Mỹ, đặc biệt là những cá thể sống xa hơn về phía nam có thể di cư đến tận các vùng cực bắc của Amazônia Legal. Điều này cho thấy đây là loài chim có xu hướng trú đông ở những khu vực có nhiệt độ không xuống thấp hơn . Quãng đường di trú của Pyrocephalus obscurus có thể lên tới . Những cá thể sống tại Bắc Mỹ thường di cư vào cuối tháng 8 và quay trở về trong khoảng từ tháng 2 đến tháng 4. Trong mùa sinh sản, con trống sẽ thành lập lãnh thổ cũng như xông xáo bảo vệ khu vực đó. Lúc ấy, lông trên đỉnh đầu và đuôi của chúng sẽ xù lên. Đôi khi chim trống cũng vừa xù đuôi vừa búng mỏ. Chúng sẽ đuổi bất kỳ cá thể trống nào dám bén mảng đến lãnh thổ của mình. Chim non mới lọt lòng cũng hỗ trợ bố mẹ xua đuổi các loài chim khác. Trong mùa sinh sản, con trống sẽ tán tỉnh bạn tình bằng cách khoe lông trên đỉnh đầu và lông vũ trên ngực, vừa vẫy đuôi, vừa bay lượn chập chờn và hót cho chim mái.
Thời kỳ đẻ trứng bắt đầu vào tháng 3 và kéo dài đến tháng 6. Chim mái đẻ trứng một lần mỗi ngày vào lúc bình minh. Kích thước trung bình của những quả trứng là × , cân nặng trung bình là , chiếm khoảng 11% khối lượng cơ thể chim mẹ. Trứng có màu trắng xỉn, ở phần đỉnh to hơn gồm nhiều đốm màu nâu lớn xếp thành hình vòng hoa. Màu sắc của các quả trứng không hề cố định. Tỷ dụ, những đốm trên trứng có thể xuất hiện nhiều hơn, trong khi phần vỏ sẽ có màu kem, màu rám nắng hoặc nâu. Thường thì tổ của loài chim này chứa hai hoặc ba quả trứng, nhưng đôi khi có thể lên đến bốn quả. Chim non mở mắt bốn ngày sau khi nở và sẵn sàng rời tổ sau 15 ngày. Tuy những con non này đều được nuôi dưỡng để tách khỏi bố mẹ cùng một thời điểm, nhưng một số cá thể vẫn rời tổ sớm hơn so với anh chị em của chúng. Ngoài ra, nếu có xáo trộn, chim non hơn 11 ngày tuổi sẽ vội vã rời bỏ tổ. Thường thì những cá thể mái sẽ sinh hai lứa mỗi năm. Mặc dù vậy, trong vài trường hợp, chúng có thể sinh đến ba lứa. Bên cạnh đó, đây còn là một loài săn mồi cơ hội. Quan sát chỉ ra chúng ăn cá nhỏ, nhưng không rõ từng ăn cỏ cây hoa lá hay chưa. Ngoài cá thì ong cũng là một con mồi của loài chim này. Khi ăn, chúng sẽ mửa ra những bộ phận khó tiêu của côn trùng sau đó nuốt lại dưới dạng viên. Trong khi chờ con mồi, chúng sẽ đậu trên những nhánh cây mỏng, quẫy đuôi lên xuống. Bên cạnh đó, virus thủy đậu và chứng loét diều chim (gây ra bởi loài trùng roi ruột non) cũng phần nào là nguyên nhân khiến cho các loài chị em của chim đớp ruồi Galapagos rơi vào tình trạng tuyệt chủng.
Mối quan hệ với con người
Pyrocephalus obscurus là đối tượng yêu thích của những người ưa ngắm chim. Tuy nhiên, chúng ít khi được nuôi nhốt như một loài thú cưng vì những con trống đa phần sẽ phai màu đi trong điều kiện giam cầm. Đây có thể là tác động của chế độ dinh dưỡng, vì việc duy trì màu đỏ tươi ở loài chim này đòi hỏi một lượng đáng kể các phân tử zeaxanthin tiền chất màu vàng, trải qua quá trình chuyển hóa để trở thành sắc tố đỏ. Zeaxanthin hoạt động như một chất chỉ thị của tính thích ứng di truyền đối với bạn tình tiềm năng. Bởi những cá thể trống thường áp dụng chế độ ăn giàu sắc tố để có màu sặc sỡ nhằm thể hiện khả năng sinh tồn cũng như tìm kiếm thức ăn.
Tổ chức National Audubon Society có trụ sở tại Tucson, Arizona từng cho ra mắt một ấn bản tạp chí mang tên loài chim này.
Tình trạng
Do sinh sống trong phạm vi rộng cùng số lượng loài lớn, dao động từ 5.000.000 đến 50.000.000 cá thể nên Pyrocephalus obscurus được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp vào nhóm loài ít quan tâm. Trong khi đó, chim đớp ruồi Darwin, cũng từng là một phần của loài, hiện đang là một loài sắp nguy cấp theo đánh giá của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.