✨Giao tiếp phi ngôn ngữ

Giao tiếp phi ngôn ngữ

nhỏ|Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa hai người tại [[Tây An, Trung Quốc.]] Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa con người là sự giao tiếp bằng cách gửi và nhận những tín hiệu phi ngôn ngữ.

Nó bao gồm việc sử dụng những tín hiệu trực quan như ngôn ngữ cơ thể (cử chỉ), khoảng cách (không gian giao tiếp), tính chất vật lý của giọng nói (hoạt ngôn) và tiếp xúc (xúc giác). Nó còn có thể bao gồm thời gian (sự sử dụng thời gian) và trực quan (giao tiếp bằng mắt và các hoạt động nhìn khi nói và lắng nghe, tần số của ánh mắt, sự giãn nở của đồng từ, hình mẫu cố định và tỉ lệ chớp mắt).

Một bài diễn văn chứa đựng những yếu tố phi ngôn ngữ được xem là hoạt ngôn, bao gồm chất lượng giọng nói, tốc độ, cao độ, âm lượng và phong cách nói, đồng thời với những đặc trưng của điệu tính như là nhịp điệu, ngữ điệu và trọng âm, còn văn bản chứa yêu tố phi ngôn từ là kiểu chữ viết tay, bố trí không gian giữa các từ động tạo ra thông tin ví dụ như biểu cảm khuôn mặt, cử chỉ và dáng điệu. Giải mã là quá trình giải thích các thông tin nhận được dựa theo những kinh nghiệm trước đó.

Chỉ một phần rất nhỏ của não bộ tham gia quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Giống như ở trẻ sơ sinh, giao tiếp phi ngôn ngữ được học từ giao tiếp cảm xúc xã hội, khiến cho khuôn mặt chiếm phần lớn hơn trong giao tiếp so với từ ngữ. Khi trẻ em biết giao tiếp bằng ngôn ngữ, chúng cũng bắt đầu nhìn biểu cảm khuôn mặt, âm điệu của giọng nói và những yếu tố phi ngôn ngữ một cách vô thức hơn.

Văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong giao tiếp phi ngôn ngữ, và trên một phương diện nào đó nó có ảnh hưởng tới cách tổ chức các hoạt động học tập. Ví dụ như trong nhiều cộng đồng bản địa ở Mỹ, giao tiếp phi ngôn ngữ thường được chú trọng như một phương thức học tập có giá trị đối với trẻ em. Trong trường hợp này, học tập không phụ thuộc vào giao tiếp ngôn ngữ mà dựa vào giao tiếp phi ngôn ngữ nhiều hơn, giống như một phương thức cơ bản không chỉ để tổ chức sự tương tác cá nhân mà còn truyền đạt những giá trị văn hóa, và trẻ em sẽ học cách tham gia vào hệ thông này từ nhỏ.

Tầm quan trọng 

thumb|Bảng ký hiệu dành cho việc giao tiếp phi ngôn ngữ với bệnh nhân. Giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm tới 2/3 trong giao tiếp. Giao tiếp phi ngôn ngữ có thể miêu tả một thông điệp với cả giọng điệu và ký hiệu cơ thể và cử chỉ chính xác. Ký hiệu cơ thể bao gồm những đặc trưng vật lý, cử chỉ và ký hiệu có ý thức hay vô thức, cũng như sự giao thoa của không gian cá nhân. Khi một hoặc một nhóm người tiếp nhận thông điệp, họ tập trung vào môi trường ngay xung quanh họ, nghĩa là những người khác sử dụng cả năm giác quan để tương tác: 83% thị giác, 11% thính giác, 3% khứu giác, 2% xúc giác và 1% vị giác.

Lịch sử nghiên cứu

Khoa học bắt đầu nghiên cứu giao tiếp và hành vi phi ngôn ngữ từ năm 1872 với việc Charles Darwin cho xuất bản cuốn sách mang tên "Sự thể hiện của cảm xúc ở con người và động vật" (The Expression of the Emotions in Man and Animals). Darwin cho rằng những nét mặt này là những thói quen từ xa xưa, từ sớm đã là những hành vi mang những chức năng đặc trưng và trực tiếp trong lịch sử tiến hóa của chúng ta.

Mặc dù giao tiếp phi ngôn ngữ đã được biết đến từ những năm 1800, nhưng sự xuất hiện của thuyết tương đối hành vi vào năm 1920 khiến những nghiên cứu chuyên sâu về giao tiếp phi ngôn ngữ bị chững lại. Những nhà nghiên cứu hành vi như B.F. Skinner huấn luyện chim bồ câu tham gia và nhiều hành vi để chứng minh bằng cách nào động vật tham gia vào hành vi khi có phần thưởng. Ấn tượng tích cực có thể được tạo ra thông qua cách mà bạn thể hiện bản thân.Sự thể hiện có thể bao gồm cả trang phục và những yếu tố trực quan khác. Ấn tượng tiêu cực có thể vừa phụ thuộc vào sự thể hiện bản thân vừa phục thuộc vào định kiến. Ấn tượng ban đầu, mặc dù đôi khi dẫn đến những hiểu nhầm, nhưng trong nhiều trường hợp lại là mô tả chính xác về những người khác.

Tư thế

Có rất nhiều kiểu định vị cơ thể khác nhau mô tả các tư thế nhất định, bao gồm thõng vai, ngẩng cao, dang rộng chân, hất hàm, đẩy vai về phía trước và khoanh tay. Những tư thế hoặc dáng đứng thể hiện bởi những cá nhân truyền đạt một loạt các thông tin cho dù nó tốt hay xấu. Tư thế có thể xác định mức độ tập trung hoặc liên quan của người tham gia, sự khác biệt trong trạng thái giữa những người tham gia giao tiếp, và mức độ yêu mến của một người đối với những người tham gia giao tiếp khác, dựa trên "sự cởi mở" của cơ thể. Những nghiên cứu điều tra tác động của tư thế trên mối quan hệ giữa các cá nhân cho thấy hình ảnh phản chiếu các tư thế tương đồng, khi mà bên trái của người này tương đương với bên phải của người khác, dẫn đến nhận thức tốt của người tham gia giao tiếp và những lời nói tích cực; một người đổ người về phía trước hoặc là về phía sau cũng tượng trưng cho tâm lý tích cực trong khi giao tiếp.

Tư thế cũng có thể có tính liên kết với tình huống, đó là khi một người thay đổi tư thế của họ phụ thuộc việc họ ở trong tình huống nào.

Trang phục

Trang phục là một trong những dạng phổ biến nhất của giao tiếp phi ngôn ngữ. Nghiên cứu về trang phục và phụ kiện như một phương thức của giao tiếp phi ngôn ngữ được biết đến như nghệ thuật thời trang hay phụ kiện. Các kiểu trang phục mà mỗi cá nhân mặc sẽ truyền tải những tín hiệu phi ngôn ngữ về cá tính, xuất thân và tình trạng tài chính của cô ấy hoặc anh ấy và cách mà những người khác phản ứng với họ. Ví dụ, đàn ông Do Thái thường mặc yamakas để thể hiện niềm tin tôn giáo của họ trong giao tiếp. Tương tự, trang phục có thể truyền tải tính dân tộc của một hay một nhóm người, ví dụ như đàn ông Scotland thường mặc kilts để tôn vinh văn hóa của họ.

Bên cạnh việc truyền tải tôn giá và tính dân tộc của một người, trang phục có thể sử dụng như một tín hiệu phi ngôn ngữ để thu hút những người khác. Đàn ông và phụ nữ có thể trưng diện bản thân với phụ kiện và thời trang cao cấp để thu hút đối tượng mà họ chú ý tới. Trong trường hợp này, trang phục được sử dụng như một dạng tự thể hiện khi mà một người có thể phô trương sức mạnh, sự giàu có, sức hấp dẫn giới tính hoặc sự sáng tạo của mình.

Cách mà một người trưng diện nói lên rất nhiều điều về cá tính của người đó. Trên thực tế, một nghiên cứu đã được thực hiện tại Đại học Bắc Carolina, đã so sánh cách mà nữ giới chưa tốt nghiệp chọn trang phục với kiểu cá tính của họ. Nghiên cứu này cho thấy nữ giới chọn trang phục "đầu tiên là vì sự thoải mái và có tính thực dụng, trông tự tin và có tính điều chỉnh xã hội cao" (theo "Tạp chí Sarasota" số 38).

Cử chỉ

Cử chỉ được tạo nên bởi tay, cánh tay hoặc cơ thể, và cũng bao gồm cả chuyển động của đầu, khuôn mặt và mắt, ví dụ như nháy mắt, gật đầu hoặc đảo mắt. Mặc dù những nghiên cứu về cử chỉ vần còn sơ sài, nhưng một số nhóm cử chỉ chính đã được xác định bởi các nhà nghiên cứu. Những cử chỉ phổ biến nhất được gọi là cử chỉ biểu trưng và cử chỉ trích dẫn. Những cử chỉ này có tính tập quán, những cử chỉ mang đặc trưng văn hóa có thể sử dụng thay thế cho ngôn ngữ, ví dụ như vẫy tay được sử dụng trong văn hóa phương Tây để ám chỉ "xin chào" hoặc "tạm biệt". Mỗi cử chỉ biểu trưng có thể mang những ý nghĩa rất khác nhau trong những bối cảnh văn hóa khác nhau, từ khen ngợi cho tới cực kì khó chịu. Có một số cử chỉ mang tính toàn cầu ví dụ như nhún vai.

Hiển thị của cảm xúc nói chung có thể chia thành hai nhóm: tiêu cực và tích cực. Cảm xúc tiêu cực thường biểu hiện bởi sự gia tăng căng thẳng trong các nhóm cơ: siết chặt cơ hàm, nhăn trán, nheo mắt hoặc mím môi (khi mà đôi môi gần như biến mất). Đối lập lại, cảm xúc tích cực được thể hiện thông qua sự nới lỏng của các nếp nhăn trên trán, thư giãn các cơ quanh phần miệng và mở to mắt. Khi một cá nhân thực sự thư giãn và thoải mái, thì đầu của họ cũng sẽ ngả sang một bên, để lộ ra phần cổ, nơi dễ bị tổn thương nhất. Đây là tư thế thoải mái cao độ nhất, thường nhìn thấy trong giai đoạn tán tỉnh, và gần như không thể bắt chước trong khi căng thẳng hoặc nghi ngờ.

Cử chỉ có thể chia thành ba nhóm:

Mô phỏng

Một số chuyển động của bàn tay không được coi là cử chỉ. Chúng bao gồm các thao tác đối với cả người và một số vật dụng (ví dụ như quần áo, bút chì, mắt kính) – các loại chuyển động mà một người thường làm bằng tay như gãi, cựa quậy, cọ xát, chạm và gõ nhịp. Những hành động đó được gọi là mô phỏng. Những chuyển động này có thể không có ý nghĩa liên quan đến lời nói mà nó đi cùng nhưng có thể coi là cơ sở để xác định khuynh hướng cảm xúc của người nói (lo lắng, khó chịu, buồn chán)

Giao tiếp bằng mắt

thumb|right|Thông tin về mối quan hệ và ảnh hưởng của hai người thể hiện thông qua cử chỉ cơ thể và giao tiếp bằng mắt. Một ví dụ cho giao tiếp bằng mắt là khi hai người nhìn vào mắt nhau cùng một lúc, nó là phương thức giao tiếp phi ngôn ngữ cơ bản chỉ ra sự gắn bó, sự quan tâm, sự chú ý và sự liên quan. Nhiều nghiên cứu đã tìm ra rằng con người dùng mắt của họ để biểu hiện sự thích thú. Nó bao gồm những ghi nhận về tần số của hoạt động nháy mắt và sự chuyển động của lông mày. Sự hờ hững được đặc biệt chú ý khi không có hoặc chỉ rất ít giao tiếp bằng mắt được thực hiện trong môi trường xã hội. Tuy nhiên khi cá nhân thể hiện sự quan tâm thì đồng tử sẽ dãn ra.

Theo Eckman, "Giao tiếp (còn được gọi trao đổi ánh mắt) là một kênh chính của giao tiếp phi ngôn ngữ. Mà trong đó thời gian của việc giao tiếp bằng mắt là quan trong nhất". Nói chung, thời gian giao tiếp bằng mắt được thiết lập giữa hai người càng lâu thì mức độ thân mật càng cao. "Sự thân thiết nhìn chung sẽ tăng lên khi sự trao đổi ánh mắt tăng lên". Trái ngược với những điều thường được tin tưởng, một người nói dối không phải lúc nào cũng tránh sự giao tiếp bằng mắt. Trong nỗ lực để thuyết phục, người nói dối cố tình giao tiếp bằng mắt nhiều hơn với những người thẩm vấn hơn là những người nói thật. Tuy nhiên, có rất nhiều ví dụ về tín hiệu nói dối, được truyền tải bởi kênh giao tiếp phi ngôn ngữ, qua đó người nói dối được cho là vô tình cung cấp manh mối về kiến thức che giấu hoặc ý kiến thực tế. Đa số nghiên cứu về tín hiệu phi ngôn ngữ dung để lừa dối dựa trên những cảnh quay mã hóa của con người (c.f. Vrij, 2008), tuy nhiên trong thời gian gần đây cũng có những nghiên cứu về sự khác biệt về chuyển động cơ thể giữa những người nói thật và nói dối bằng cách sử dụng hệ thống tự động ghi hình chuyển động cơ thể.

Giao lưu văn hóa

Trong khi "nói chuyện" được cho rằng mang tính truyền thống thì giao tiếp phi ngôn ngữ lại chứa đựng những ý nghĩa mang tính biểu tượng và chính xác cao, tương tự như giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên giao tiếp phi ngôn ngữ lại thể hiện thông qua việc sử dụng các cử chỉ, thay đổi của tư thế và thời gian giao tiếp. Sắc thái đối với các khía cạnh khác nhau của giao tiếp phi ngôn ngữ được tìm thấy trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên toàn thế giới. Những khác biệt này thường dẫn tới việc bất đồng giao tiếp giữa những người có nền văn hóa khác nhau, mặc dù họ không có ý xúc phạm. Sự khác biệt có thể dựa trên sự ưu tiên trong phương thức giao tiếp, ví dụ như người Trung Quốc, những người thường thích sự yên lặng sau khi giao tiếp bằng lời nói. Sự khác biệt thậm chí còn dựa trên cách mà nền văn hóa nhận thức về dòng chảy thời gian. Dòng thời gian, cách mà con người khiểm soát thời gian, có thể được nhận thấy bằng hai cách: phức thời, nghĩa là một người thực hiện nhiều hoạt động cùng một lúc, thường phổ biến ở Ý và Tây Ban Nha hoặc đơn thời, khi một người chỉ thực hiện một hành động tại một thời điểm, thường phổ biến ở Mỹ. Bởi giao tiếp phi ngôn ngữ có thể đa dạng nhờ vào những hệ cử chỉ, ánh mắt, trang phục, tư thế, phương hướng hoặc thậm chí cả những dấu hiệu đến từ môi trường xung quanh ví dụ như ánh sáng – cho nên có rất nhiều khía cạnh trong sự khác biệt văn hóa.

Cử chỉ

Cử chỉ thật sự sinh động giữa các nền văn hóa trong cách mà nó được sử dụng cũng như ý nghĩa mà chúng biểu thị cho. Một ví dụ phổ biến là chỉ tay. Ở Mỹ, chỉ tay là cử chỉ của một ngón tay hoặc cả bàn tay để xác định hoặc nghĩa là "hãy tới đây" khi gọi một chú chó. Nhưng chỉ tay bằng một ngón tay cũng có thể bị coi là hành động thô lỗ với một vài nền văn hóa. Những người thuộc nền văn hóa Á châu thường dùng cả bàn tay để trỏ một thứ gì đó. Một vài ví dụ khác có thể được nhắc tới như việc bạn thè lưỡi của mình ra. Ở các nước châu Âu, đó có thể bị xem là một sự nhạo bang, nhưng ở Polynesia nó lại được dùng như lời chào hỏi hoặc biểu hiện của sự tôn kính. Đối với các nước Phương Tây, tiếng cười là dấu hiệu của sự giải trí, nhưng ở một số vùng của châu Phi, tiếng cười là một dấu hiệu của sự ngạc nhiên hay bối rối. Người Mỹ bản địa có xu hướng dè dặt và ít bộc lộ cảm xúc hơn. Việc tiếp xúc cơ thể thường phổ biến với người Mĩ; Tuy nhiên, những hành động như đụng chạm, vuốt ve, ôm hoặc hôn nhau lại ít gặp và ít thể hiện công khai ở Trung Quốc.

Khoảng cách vật lý được chấp nhận cũng có sự khác biệt lớn trong giao tiếp phi ngôn ngữ giữa các nền văn hóa. Với người Mỹ La tinh và người Trung Đông khoảng cách vật lý được chấp nhận ngắn hơn rất nhiều so với đa số người châu Âu và người Mỹ có thể cảm thấy thoải mái. Đó là lý do tại sao người Mỹ và người châu Âu cảm thấy bị người khác xâm chiếm không gian cá nhân của minh khi đứng quá gần, trong khi những người khác lại tò mò vì sao người Mỹ/người châu Âu lại đứng xa họ. Ngoài ra, đối với người Mỹ La tinh, Pháp và Ả Rập khoảng cách giữa con người gần hơn rất nhiều so với người Mỹ; thông thường với những nhóm có khoảng cách gần, khoảng cách giữa người yêu là 30 cm, từ 45 cm đến 1.2m là khoảng cách cho gia đình và bạn bè và từ 1.2m đến 3.6m đối với người lạ.

Tính chất chủ đạo của kiểu giáo dục bằng giao tiếp phi ngôn ngữ là trẻ em có cơ hội được quan sát và tương tác với tất cả các phần của hoạt động. Nhiều trẻ em bản xứ Mỹ thường tiếp xúc gần gũi với người lớn và số còn lại thậm chí thể hiện những hành động một cách thuần thục. các vật dụng và nguyên liệu trở nên quen thuộc với trẻ em giống như là những hoạt động đó là một phần bình thường của cuộc sống hàng ngày. Giáo dục được hoàn thiện trong một môi trường bối cảnh hóa hoàn toàn chứ không phải một bài giảng thiết kế sẵn. Trẻ nhỏ được tham gia vào cuộc nói chuyện giữa người lớn bằng cách giải thích bằng ngôn ngữ không lời của đứa trẻ, và chúng là một thành viên bên ngoài đồng thời được cả hai người hay cả tập thể giao tiếp hướng đến. Sự tham gia này của trẻ nhỏ trong những cuộc đối thoại của người lớn ảnh hưởng tới sự phát triển của chúng trong những cộng đồng này, giống như chúng có thể đảm đương một vai trò tích cực trong học hỏi từ lúc bập bẹ.

Trông một số cộng đồng bản xức Mỹ, có thể thấy rằng lý do chính của trẻ em khi lao động tại nhà là để cùng gia đình xây dựng sự đoàn kết, cũng giống như cách mà chúng khát khao xây dựng một quân đội với cộng đồng của mình. Đa số trẻ em bản xứ học được tầm quan trọng của việc đặt những công việc này dưới dạng giao tiếp phi ngôn ngữ. Bằng chứng của việt này có thể thấy được thông qua nghiên cứu trường hợp trẻ nhỏ được hướng dẫn các nhiệm vụ gấp giấy bằng cách quan sát tư thế và ánh mắt của những người hướng dẫn. Điều này được phản ánh thông qua gia đình và cộng đồng, giống như trẻ đang chờ đợi tín hiệu nào đó từ những người khác để phối hợp và cộng tác.

Sự hợp tác được nhắc đến trong phong cách giáo dục "Học hỏi bằng quan sát và cùng hợp tác". Các khía cạnh nổi bật đặc tính của sự hợp tác chính là sự phối hợp linh hoạt của một tập thể, hòa trộn các ý tưởng, các kiến nghị và tiến độ. Rất nhiều cộng đồng bản xứ có phong cách giáo dục này, và trẻ em với người lớn làm việc sát cánh như những đồng nghiệp. Trẻ em có thể hoàn thành một loạt các trách nhiệm bởi phụ huynh cho phép chúng tự do tham gia vào các công việc của người lớn ngay từ khi còn nhỏ. Ví dụ như những đứa trẻ nhập cư Mỹ thực hiện việc phiên dịch cho gia đình và thể hiện sự tự hào đối với sự đóng góp và định hướng hợp tác với cha mẹ của mình. Bằng việc tạo cơ hội để trẻ chứng minh tinh thần làm việc của mình, những người bản xứ thường nhìn nhận những đóng góp và sự cộng tác từ trẻ nhỏ, đặc biệt đối với những sáng kiến của chúng trong các bài học về sử dụng ngôn ngữ khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể từ khi còn nhỏ.

Một khía cạnh của giao tiếp phi ngôn ngữ là hỗ trợ truyền đạt những ý nghĩa chính xác và mang tính biểu tượng "đặt trong bối cảnh". Ý tưởng về việc nhiều trẻ em trong cộng đồng bản xứ Mỹ tham gia chặt chẽ vào các nỗ lực của cộng đồng, về cả mặt không gian và các mối quan hệ, giúp giao tiếp phi ngôn ngữ chứng minh rằng từ ngữ không phải lúc nào cũng cần thiết. Khi mà trẻ em liên quan mật thiết với bối cảnh của nỗ lực như một người tham gia tích cực, sự hợp tác dựa trên chia sẻ sự tham khảo, điều giúp cho phép, duy trì và phát triển giao tiếp phi ngôn ngữ. Ý tưởng về "sự gắn kết bối cảnh" cho phép giao tiếp phi ngôn ngữ trở thành mộ phương tiện giáo dục phổ biến với cộng đồng người Mỹ bản xứ vùng Alaska (Athabaskans và Cherokee). Bằng cách quan sát các tương tác xã hội đa dạng của gia đình và cộng đồng, sự tham gia của xã hội chủ yếu là thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ. Ví dụ như khi trẻ em diễn đạt suy nghĩ hay ngôn từ bằng lời nói với người lớn, chúng luôn được mong rằng sẽ tạo ra cấu trúc lời nói một cách cẩn thận. Điều đó chứng minh rằng văn hóa khiêm tốn và tôn trọng là một chuỗi những hành vi của lời nói và các loại hình đàm thoại thể hiện yếu điểm và tự ti. Quá trình tự kiểm duyệt cẩn thận này minh họa cho văn hóa tương tác của người bản địa Mỹ Atthapaskin và Cherokee thường chủ yếu phụ thuộc vào giao tiếp phi ngôn ngữ.

Những tín hiệu giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng bởi đa số trẻ em của cộng đồng người Ấn Độ trong môi trường học đường của chúng. Điều này bao hàm sự tham khảo đối với cách thể hiện tôn giáo bằng các cử chỉ bàn tay cách điệu như ngôn ngữ trong gia tiếp của người bản địa Mỹ, giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ sẽ kiềm chế cảm xúc bản thân, và những chuyển động của cấu trúc khuôn mặt thu hút sự chú ý của mắt trong quá trình giao tiếp trực diện. Bởi thế, trẻ em chỉ được tiếp cận các tình huống xã hội trong phòng học có thể gặp khó khăn với cách học tập chủ yếu thông qua lời nói. Đa số trẻ em Ấn Độ thu được nhiều lợi ích từ hình mẫu học tập phù hợp với giao tiếp phi ngôn ngữ cấu tạo bởi sự hợp tác, những cử chỉ truyền thống, học hỏi thông qua quan sát và chia sẻ kinh nghiệm.

Đáng chú ý là trong khi giao tiếp phi ngôn ngữ phổ biến hơn trong xã hội người Mỹ bản địa, nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữ vẫn được sử dụng. Giao tiếp bằng ngôn ngữ không thể thay thế sự tham gia của một người vào các hoạt động nhưng có thể thay thế các hoạt động với vai trò hướng dẫn bổ sung hoặc phụ trợ cho việc hoàn thiện một hoạt động. Thông điệp của ý nghĩa cử chỉ bao gồm tư thế, ánh nhìn và chuyển động của khuôn mặt. Đập, kéo, đẩy, véo, đá, bóp cổ và đấu tay đôi là những dạng tiếp xúc lạm dụng thể chất.

Không gian giao tiếp

Không gian giao tiếp là nghiên cứu các khía cạnh văn hóa, hành vi và xã hội học với khoảng cách giữa hai cá nhân. Mỗi người đều giữ cho mình một khoảng không nhất định khi giao tiếp, giống như những quả bóng cá nhân. Khi được sử dụng như một loại tin hiệu giao tiếp phi ngôn ngữ, không gian giao tiếp giúp xác định không gian giữa hai các nhân trong khi tương tác. Có bốn loại hình của không gian giao tiếp với khoảng cách khác nhau phụ thuộc vào hoàn cảnh và những người có liên quan. Khoảng cách thân mật sử dụng trong những giao tiếp gần gũi như ôm, tiếp xúc hay thì thầm. Khoảng cách cá nhân dành cho tương tác với bạn thân và thành viên trong gia đình. Khoảng cách xã hội dành cho tương tác giữa những người quen biết. Nó thường được sử dụng ở nơi làm việc hoặc trường học – những nơi mà không xảy ra tiếp xúc thể chất. Khoảng cách công cộng dành cho người lạ hoặc diễn thuyết trước công chúng.

Chức năng

Argyle (1970) đưa ra giả thuyết rằng ngôn ngữ nói thường được sử dụng để trao đổi thông tin về những sự kiện bên ngoài đối với người nói, những tín hiệu phi ngôn ngữ lại thường dùng để thiết lập và duy trì mỗi quan hệ giữa các cá nhân. Việc giao tiếp bằng hình thức phi ngôn ngữ được cho là lịch sự và tốt hơn là bằng ngôn ngữ, ví dụ như để tránh những tình huống xấu hổ.

Argyle (1988) kết luận rằng có 5 chức năng cơ bản của hành động phi ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp của con người:

  • Thể hiện cảm xúc  
  • Thể hiện thái độ giữa các cá nhân 
  • Kết hợp với ngôn ngữ quản lý những dấu hiệu của tương tác giữa người nói và người nghe 
  • Tự giới thiệu về nhân cách của bản thân
  • Nghi lễ (chào hỏi) Liên quan đến bày tỏ thái độ giữa các cá nhận, sự gần giũ trong giao tiếp giữa các cá nhân thông qua một loạt hành động phi ngôn ngữ được xem như hành vi tức thời. Những ví dụ về hành vi tức thời là mỉm cười, tiếp xúc, tư thế cơ thể mở và giao tiếp bằng mắt. Văn hóa thể hiện những hành vi tức thời này được coi là văn hóa tiếp xúc cao.

So sánh với giao tiếp bằng lời nói

Một câu hỏi thú vị là khi hai người đang giao tiếp mặt đối mặt thì bao nhiêu ý nghĩa được truyền tải bằng ngôn ngữ và bao nhiêu được truyền tải phi ngôn ngữ? Điều này được nghiên cứu bởi Albert Mehrabian và ghi lại trong hai bản thảo. Bản thảo thứ hai kết luận rằng: "hiệu ứng kết hợp truyền tải bởi ngôn ngữ, giọng điệu và thái độ khuôn mặt khi giao tiếp là tổng trọng số những hiệu ứng độc lập – với các hệ số tương ứng là 0,07, 0,38 và 0,55."

Từ đó, những nghiên cứu khác phân tích sự đóng góp tương đối của tín hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ dưới những tình huống tự nhiên hơn. Argyle có những đối tượng đánh giá chỉ số vui/buồn của một người và thấy rằng chỉ một sự thay đổi nhỏ nhất trong ngữ điệu cũng tạo ra tác động gấp 4 lần những biểu hiện cảm xúc trong một bộ phim không có âm thanh. Vì thế, sự quan trọng tương dối giữa lời nói và biểu cảm khuôn mặt có thể rất khác biệt trong những nghiên cứu với thiết lập khác nhau.

Tương tác

Trong khi giao tiếp, thông điệp phi ngôn ngữ có thể tương tác với thông điệp bằng ngôn ngữ bằng 6 cách: lặp lại, mâu thuẫn, bổ sung, thay thế, điều chỉnh và quản lý.

Mâu thuẫn

Sự mâu thuẫn giữa thông điệp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong cùng một tương tác đôi khi gửi đi những thông điệp tương phản hoặc mâu thuẫn. Một lời nói trần thuật sự thật nhưng thái độ lại bồn chồn hay lảng tránh ánh mắt có gửi tới người nhận những thông điệp bị xáo trộn trong khi tương tác. Những thông điệp mâu thuẫn có thể xảy ra bởi nhiều lý do thông thường là cảm giác không ổn định, phân vân hay thất vọng. Khi những thông điệp bị xáo trộn xảy ra thì giao tiếp phi ngôn ngữ trở thành công cụ chính để đưa ra thêm thông tin nhằm làm rõ tình huống; sự chú ý lớn được đặt vào những tư thế và chuyển động cơ thể khi con người cảm nhận được sự xáo trộn của thông điệp trong khi tương tác. Những định nghĩa về giao tiếp phi ngôn ngữ tạo ra một bức tranh bị giới hạn trong tâm trí con người nhưng lại có những cách để tạo ra một bức tranh rõ ràng hơn. Người ta khám phá ra những định dạng khác nhau giữa giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Đó là tính cấu trúc so với phi cấu trúc, ngôn ngữ học so với phi ngôn ngữ học, tuần hoàn so với không tuần hoàn, được giáo dục so với bẩm sinh, hoạt động của bán cầu phải so với bán cầu trái.

Bổ sung 

Sự giải thích một cách chính xác các thông điệp trở nên dễ dàng hơn khi giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ bổ sung cho nhau. Những tín hiệu phi ngôn ngữ có thể được xây dựng dựa trên những thông điệp bằng ngôn ngữ để củng cố thông tin được gửi đi khi con người cố gắng đạt được mục tiêu giao tiếp. Thông điệp được đưa ra sẽ dễ ghi nhớ hơn những tín hiệu phi ngôn ngữ khẳng định lại việc trao đổi bằng lời nói. Những nhà nghiên cứu tại Đại học Pittburgh, Đại học Yale và Đại học bang Ohio lấy đối tượng theo dõi là những con bạc đang chờ phần thưởng tại một máy quay thưởng. Lượng tiền thưởng được đoán trước bởi những sự truyền tải không lời. Kỹ thuật này đã được phát triển và nghiên cứu trưc tiếp bởi bác sĩ tâm lý học Robert E. Miller và bác sĩ tâm thần học Dr. A. James Giannini. Nhóm nghiêm cứu này đã có những báo cáo cho thấy việc giảm khả năng tiếp nhận ở người nghiện ma heroin và làm dụng chất gây ảo giác trái ngược với việc tang khả năng tiếp nhận của người nghiện cocaine. Người có biểu hiện trầm cảm nặng có những dấu của việc giảm đáng kể khả năng hiểu tín hiệu phi ngôn ngữ khi được so sánh với những người có trạng thái bình thường.

Ở một vài đối tượng kiểm tra khả năng hiểu tín hiệu phi ngôn ngữ, mô hình trực quan dường như là sự chiếm dụng trong khi một vài đối tượng khác sử dụng phương pháp nguyên nhân và kết quả. Những đối tượng trong nhóm thứ nhất trả lời nhanh và trước khi có sự gợi ý. Họ không đưa ra một lý do cụ thể cho phản hồi của họ. Đối tượng ở nhóm sau trì hoãn sự phải hổi của họ và có thể đưa ra lý do cho sự lựa chọn của họ. Mức độ chính xác của hai nhóm không hề biến đổi hay thuận tay.

Freitas-Magalhaes nghiên cứu về hiệu quả của nụ cười trong chữa trị chứng trầm cảm và kết luận rằng những dấu hiệu trầm cảm giảm đi khi bạn cười thường xuyên hơn.

Phụ nữ béo phì và phụ nữ tiền mãn kinh được cho rằng cũng bị giảm khả năng hiểu những tín hiệu này. Trái ngược lại, đàn ông bị rối loạn lưỡng cực thì khả năng này lại tăng lên. Một phụ nữ bị tê liệt tổng thể cơ mặt đã được khẳng định rằng không có khả năng truyền hay nhận bất cứ tín hiệu phi ngôn ngữ nào trên khuôn mặt. Từ những thay đổi mức độ tiếp nhận phi ngôn ngữ chính xác, những thành viên của đội nghiên cứu đưa ra giả thuyết có một mạng lưới sinh hóa điều khiển việc tiếp nhận những tín hiệu phi ngôn ngữ. Bởi có một số loại thuốc tăng khả năng tiếp nhận trong khi một số khác lại làm giảm khả năng này, các chất truyền dẫn thần kinh như dopamine và endorphin được cho là có nguyên nhân gây ra việc này. Mặc dù dựa trên những thông tin đã có sẵn nhưng nguyên nhân và hiệu ứng cơ bản không thể được sắp xếp dựa trên hình thức sử dụng.

Nhận thức của trẻ em 

Sự tăng cường tập trung vào cử chỉ chỉ xảy ra khi ngữ điệu hoặc biểu cảm khuôn mặt được sử dụng. "Người nói thường dự đoán cách mà người nghe tiếp nhận những phát ngôn của họ. Nếu họ muốn điều gì khác, ít được giải thích rõ ràng, họ sẽ "đánh dấu" phát ngôn của họ (ví dụ như những ngữ điệu hoặc biểu cảm khuôn mặt đặc biệt).| Việc nhấn mạnh cụ thể được hiểu là "đánh dấu" này được cho rằng có thể học từ những giao tiếp phi ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. Một nghiên cứu đột phá của tạp chí Ngôn ngữ trẻ em (Journal of Child Language) đã kết luận rằng hành động đánh dấu một cử chỉ này được phát hiện ở trẻ 3 tuổi, nhưng lại không thấy ở trẻ 2 tuổi.

Trong nghiên cứu, trẻ 3 tuổi và trẻ 2 tuổi được kiểm tra về nhận thức sự đánh dấu với cử chỉ. Thí nghiệm được thực hiện trong một căn phòng với người giám định và những đối tượng kiểm tra, nghiên cứu đầu tiên là dành cho trẻ 3 tuổi. Người giám định ngồi riêng với từng trẻ và để chúng tự do chơi với các loại đồ vật khác nhau trong đó có một chiếc ví và một chiếc hộp đều có miếng bọt biển bên trong. Sau khi để trẻ chơi với những đồ vật đó trong vòng 3 phút người giám định bảo với trẻ đã đến giờ dọn dẹp và chỉ vào những đồ vật. Họ đánh giá phản ứng của trẻ bằng cách sử dụng hoặc không sử dụng đánh dấu cử chỉ để xem trẻ có tương tác với yêu cầu và tiếp cận đồ vật để dọn dẹp chúng hay không. Kết quả cho thấy trẻ 3 tuổi có thể nhận biết sự đánh dấu với việc phản hồi lại cử chỉ và dọn dẹp những đồ vật.

Trong nghiên cứu thứ hai thì các thí nghiệm được thực hiện tương tự với trẻ 2 tuổi cho kết quả hoàn toàn khác biệt. Đa số trẻ không nhận ra sự khác biệt giữa cử chỉ được đánh dấu và không được đánh dấu như trẻ 3 tuổi. Điều đó chỉ ra rằng dạng giao tiếp phi ngôn ngữ này được tiếp thu ở trẻ nhỏ, và được nhận thức bởi trẻ 3 tuổi tốt hơn so với trẻ 2 tuồi.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa hai người tại [[Tây An, Trung Quốc.]] **Giao tiếp phi ngôn ngữ** giữa con người là sự giao tiếp bằng cách gửi và nhận những tín hiệu phi ngôn
Combo 2 Cuốn Sức Mạnh Của Tĩnh Lặng Bí Quyết Đọc Tâm - Thấu Hiểu Người Khác Chỉ Trong Giây Lát Sách Tâm Linh & Kỹ Năng Giao Tiếp Phi Ngôn Ngữ 1, Sức Mạnh
thumb|right|Hai người phụ nữ nói chuyện với nhau. Chú ý người phụ nữ mặc áo xanh khép một cánh tay co sát cơ thể, trong khi người kia sử dụng tay mình để biểu thị,
nhỏ| Hai nhân vật giao tiếp bằng mắt trong _The Fortune Teller_ của [[Caravaggio ]] nhỏ|Hai học sinh khóa mắt. **Giao tiếp bằng mắt** xảy ra khi hai con vật nhìn vào mắt nhau cùng
**Giao tiếp** thường được định nghĩa là sự truyền tải thông tin. Hiện chưa có thống nhất về định nghĩa chính xác của thuật ngữ, đồng thời có nhiều tranh cãi về việc giao tiếp
**Giao tiếp qua máy tính** **trung gian**, còn được gọi là CMC (viết tắt của Computer Mediated Communication) được định nghĩa là bất kỳ giao tiếp nào của con người xảy ra thông qua việc
nhỏ|phải|Một đứa trẻ và chú cừu, có thể thấy cả hai như đang giao tiếp phi ngôn ngữ nhỏ|phải|Một người chủ đang giao tiếp với con [[thỏ nuôi|thỏ cưng của mình thông qua cử chỉ
**Giao tiếp ở người** là lĩnh vực nghiên cứu cách con người giao tiếp. Động từ _giao tiếp_ (communicate) là hoạt động chia sẻ, trao đổi _thông tin_, tin tức, ý tưởng. _Giao tiếp ở
**Nguồn gốc ngôn ngữ** và quan hệ của ngôn ngữ đối với tiến hóa của loài người là chủ đề học thuật đã được bàn luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù vậy, ta vẫn
ĐỪNG BỎ SÓT THÔNG ĐIỆP KHÔNG LỜI NÀO NỮA Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ cơ thể để bày tỏ cảm xúc thật của mình về một tình
ĐỪNG BỎ SÓT THÔNG ĐIỆP KHÔNG LỜI NÀO NỮA Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy con người sử dụng ngôn ngữ cơ thể để bày tỏ cảm xúc thật của mình về một tình
**Ngôn ngữ học** hay **ngữ lý học** là bộ môn nghiên cứu về ngôn ngữ. Người nghiên cứu bộ môn này được gọi là nhà ngôn ngữ học. Nói theo nghĩa rộng, nó bao gồm
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
thumb|thumbtime=5|_Preservation of the Sign Language_ (1913) nhỏ|Juan Pablo Bonet, _Reducción de las letras y arte para enseñar a hablar a los mudos_ (Madrid, 1620). **Ngôn ngữ ký hiệu** hay **ngôn ngữ dấu hiệu**, **thủ ngữ**
right|thumb|220x220px|Hai người không gây ảnh hưởng đến không gian cá nhân của nhau right|thumb|220x220px|Phản ứng của hai người có vùng không gian cá nhân xung đột **Không gian giao tiếp** là các nghiên cứu về
**D** là một ngôn ngữ lập trình hệ thống hướng đối tượng, dùng câu lệnh, đa mẫu hình do Walter Bright của Digital Mars tạo ra và phát hành năm 2001. Quá trình thiết kế
**Pascal** là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh và thủ tục, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970. Pascal là ngôn ngữ lập trình đặc biệt thích hợp
**Ngôn ngữ LGBT** là môn nghiên cứu từ ngữ của cộng đồng LGBT. Các thuật ngữ liên quan hoặc đồng nghĩa phát triển bởi William Leap vào những năm 1990, bao gồm **ngôn ngữ màu
phải|Bản đồ ngôn ngữ của châu Âu (đơn giản hóa). **Ngôn ngữ học châu Âu** là ngành ngôn ngữ học khá mới mẻ, nghiên cứu về các ngôn ngữ tại châu Âu. Tuy nhiên, ở
**Java** (phiên âm Tiếng Việt: "_Gia-va_") là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng, dựa trên lớp được thiết kế để có càng ít phụ thuộc thực thi càng tốt. Nó là ngôn ngữ
phải|nhỏ|402x402px|[[Mã nguồn của một chương trình máy tính đơn giản được viết bằng ngôn ngữ lập trình C. Khi được biên dịch và chạy, nó sẽ cho kết quả "Hello, world!".]] **Ngôn ngữ lập trình**
**C** là một ngôn ngữ mệnh lệnh được phát triển từ đầu thập niên 1970 bởi Dennis Ritchie để dùng trong hệ điều hành UNIX. Từ đó, ngôn ngữ này đã lan rộng ra nhiều
[[Tập tin:Africa ethnic groups 1996.jpg|thumb|upright=1.5|Bản đồ cho thấy phân bố của các ngữ hệ truyền thống tại châu Phi: Niger-Congo: Nin-Sahara: ]] Có 1.250 tới 2.100 và theo một nguồn là có tới 3.000 ngôn
Trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta thường tập trung sự chú ý vào nội dung lời nói của đối phương, cho rằng đây là điều cốt lõi và then chốt của giao tiếp nhưng
**Nhóm ngôn ngữ Gbe** (phát âm ) là một tập hợp gồm khoảng 20 ngôn ngữ liên quan đến nhau hiện diện trên một khu vực kéo dài từ đông Ghana đến tây Nigeria. Số
nhỏ|Cbmain Trong khoa học máy tính, một **ngôn ngữ lập trình bậc cao** (tiếng Anh: _high-level programming language_) là một ngôn ngữ lập trình có sự trừu tượng hóa mạnh mẽ khỏi các chi tiết
**R** là một ngôn ngữ lập trình và môi trường phần mềm dành cho tính toán và đồ họa thống kê. Đây là một bản hiện thực ngôn ngữ lập trình S với ngữ nghĩa
nhỏ|Mô hình ngôn ngữ máy được lập nên bởi nhà toán học, nhà thủy văn và lập trình viên Vladimir Mikhailovich Kazakov, nhân viên Máy tính của Viện Energosetproekt năm 1962-1972. **Ngôn ngữ máy** (còn
Đây là một trong bốn loại hình ngôn ngữ quan trọng của thế giới: loại hình **ngôn ngữ đơn lập** hay còn gọi là **ngôn ngữ cách thể**, loại hình ngôn ngữ chắp dính (ngôn
**Ngôn ngữ chính thức** là ngôn ngữ đã được xác nhận tình trạng pháp lý riêng tại mỗi quốc gia, mỗi tiểu bang, lãnh thổ hay tổ chức. Thông thường là ngôn ngữ được dùng
thumb|[[Tranh khảm La Mã|Tranh khảm (220–250) được tìm thấy tại El Djem, Tunisia (Phi Lợi Gia thuộc La Mã). Trên đây viết dòng chữ Latinh "Im đi! Để lũ trâu ngủ" _(Silentiu[m] dormiant tauri)_ và
**Mô hình siêu cá nhân** là một mô hình của hình thức giao tiếp giữa các cá nhân với nhau, khi hình thức giao tiếp qua trung gian máy tính (CMC) vượt qua được sự
**Ngữ dụng học (pragmatics)** là một chuyên ngành thuộc ngôn ngữ học và tín hiệu học nghiên cứu về sự đóng góp của bối cảnh tới nghĩa. Ngữ dụng học bao hàm cả Lý thuyết
**Chữ viết** là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo dạng văn bản, là sự miêu tả ngôn ngữ thông qua việc sử dụng các ký hiệu hay các biểu tượng.
thumb|Phân bố năm 2005 của các ngữ hệ chính trên thế giới (vài trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý, không dựa trên "di truyền"). Các nhánh con của các ngữ hệ được lược
[[Hình:Map of Slovenian dialects.svg|thumb|Bản đồ các nhóm phương ngữ tiếng Slovene ]] **Các phương ngữ tiếng Slovene** () là những biển thể vùng miền của tiếng Slovene, một ngôn ngữ Nam Slav. Tiếng Slovene thường
**Nhóm ngôn ngữ Semit Nam** là một nhánh giả định của ngữ tộc Semit. Semit là một nhánh của ngữ hệ Phi-Á lớn hơn hiện diện ở Bắc và Đông châu Phi và Tây Á.
**Nhóm ngôn ngữ Manding** (đôi khi được biết là **Manden**) là nhóm phương ngữ/ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mande được nói ở Tây Phi. Các ngôn ngữ nổi bật nhất là tiếng Bambara, ngôn
**Hành vi xã hội** là hành vi giữa hai hoặc nhiều sinh vật trong cùng một loài và bao gồm bất kỳ hành vi nào trong đó một thành viên ảnh hưởng đến người khác.
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
**Ngôn ngữ động vật** là hình thức giao tiếp ở động vật không phải của con người nhưng cho thấy sự tương đồng với ngôn ngữ của con người. Động vật giao tiếp với nhau
thumb|Các trang web của dự án quan sát vi sóng SETI (tìm kiếm trí thông minh ngoài Trái Đất) thuộc NASA. **Giao tiếp với trí thông minh ngoài Trái Đất** hay **CETI**, là một nhánh
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
**Người nhập cư kỹ thuật số (Digital Immigrant)** là một khái niệm được đưa ra bởi Marc Prensky để tạo sự khác biệt với người bản địa kỹ thuật số. Prensky đề cập đến những
**Các phương ngữ tiếng** **Ả Rập** ( __) là một cụm từ chỉ đến các phương ngữ tiếng Ả Rập, do "sự can nhiễu" ngôn ngữ giữa tiếng Ả Rập và các ngôn ngữ địa
[[Tập tin:Francophone_Africa.svg|nhỏ|308x308px| |thế=]] nhỏ|280x280px|[[Graffiti trên đại lộ Habib-Bourguiba ở Tunis vào tháng 3/2012.]] **Tiếng Pháp tại châu Phi** là tập hợp tất cả các phương ngữ, giọng nói và từ mượn, cấu trúc và tạo
Trong hành trình học ngoại ngữ, chúng ta luôn tìm kiếm một môi trường học tập lý tưởng, nơi có sự hướng dẫn chuyên nghiệp và cơ hội thực hành ngôn ngữ hàng ngày. Trung
Thành Nguyễn là một salon cung cấp dịch vụ làm tóc và đào tạo nghề tóc, giáo dục hướng nghiệp, đặc biệt với tất cả nhân viên đều là người Điếc, do một người Điếc