✨Giả thuyết thế giới công bằng

Giả thuyết thế giới công bằng

Nguỵ biện thế giới công bằng hay giả thuyết thế giới công bằng là một thiên kiến nhận thức. Theo thiên kiến này, những hành vi của một cá nhân sẽ có khuynh hướng tự nhiên dẫn tới hệ quả công bằng về đạo đức, từ đó cho rằng những hành động cao cả sẽ được đền đáp, còn những hành động xấu xa thì bị trừng phạt. Nói cách khác, nguỵ biện này là xu hướng quy kết hệ quả hoặc hệ quả kỳ vọng là sự kiện tất yếu gây ra bởi lực phổ quát (thứ đảm bảo sự cân bằng về đạo đức) hoặc tính kế thừa phổ quát của cấu trúc sự vật (thứ liên kết hành vi và hệ quả). Niềm tin này thường ngầm khẳng định sự tồn tại của công lý vũ trụ, định mệnh, nhiếp lý thần thánh, xứng đáng (triết học), cân bằng (siêu hình) và/hoặc trật tự, cũng như đi với nhiều kiểu ngụy biện bản chất - đặc biệt là khi hợp lý hoá những đau khổ của con người, cho rằng chúng tất yếu sẽ xảy ra vì họ "xứng đáng".

Giả thuyết về thế giới công bằng xuất hiện tương đối phổ biến dưới nhiều hình thức diễn đạt khác nhau, nhưng có chung hàm ý rằng những điều xấu tương ứng với hành vi chắc chắn sẽ xảy đến, ví dụ như "của thiên trả địa", "đời cha ăn mặn đời con khát nước", "gậy ông đập lưng ông", "nhân quả đấy", "gieo gió ắt gặt bão", "do ăn ở cả thôi"... Công trình nghiên cứu đầu những năm 1960 về niềm tin vào một thế giới công bằng của Melvin J. Lerner đã đặt nền móng cho các nghiên cứu rộng hơn sau này của các nhà tâm lý học xã hội. Sau đó, nhiều nghiên cứu khác kiểm tra khả năng đoán trước của thuyết này trong những tình huống khác nhau ở nhiều nền văn hóa, đồng thời làm rõ và mở rộng hiểu biết lý thuyết về niềm tin thế giới công bằng.

Khởi nguồn

Từ sau khi nhà triết học Pyrrhon Sextus Empiricus phản đối niềm tin thế giới công bằng vào khoảng năm 180, nhiều nhà triết học và lý thuyết xã hội học khác đã chứng kiến và thừa nhận hiện tượng niềm tin này. Giữa thế kỷ XIX, giả thuyết thế giới công bằng đã trở thành trọng tâm nghiên cứu của ngành tâm lý học xã hội nhờ công trình của Lerner. Trong đạo đức học Aristotle, "công lý" là nguyên tắc của mọi trí huệ - ý thức đạo đức sâu bên trong bản chất của loài động vật xã hội lý tính: con người.

Melvin Lerner

Vì ngành tâm lý học xã hội khi đó chỉ thường nghiên cứu về các tương tác xã hội tiêu cực, Lerner đã chuyển sang nghiên cứu niềm tin công lý và thuyết thế giới công bằng. Ông coi công trình này là phiên bản mở rộng của thí nghiệm phục tùng Milgram và mong muốn tìm hiểu vì sao các chế độ tàn ác gây ra đau khổ lại có được sự ủng hộ của dân chúng, và do đâu mọi người lại chấp nhận các chuẩn mực và luật lệ đó.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, Lerner nhiều lần bị ảnh hưởng bởi xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân của những người ngoài cuộc. Khi còn thực tập tâm lý lâm sàng, ông đã được quan sát các bác sĩ đồng nghiệp điều trị bệnh nhân tâm thần. Theo Lerner, những bác sĩ này là những người tốt, có học thức, nhưng lại thường cho rằng bệnh nhân đau khổ là do họ. Lerner cũng rất ngạc nhiên khi nghe các học sinh giễu cợt người nghèo, nhưng dường như không hề biết đến khái niệm bạo lực hệ thống - thứ gây ra vấn nạn. Các lý thuyết tâm lý xã hội khi đó, gồm cả thuyết bất hòa nhận thức, không thể giải thích đầy đủ những hiện tượng này.

Kết quả, nguyên nhân và/hoặc tính cách có thể bị tái diễn giải để trở nên phù hợp với niềm tin thế giới công bằng. Nếu phải quan sát những người vô tội đau khổ và bị đối xử bất công, người quan sát có thể tái sắp xếp nhận thức về sự kiện bằng cách giải thích nạn nhân đáng bị như vậy.

Nhiều nhà nghiên cứu coi niềm tin thế giới công bằng là một ví dụ của quy kết nhân quả. Những người đổ lỗi cho nạn nhân đã quy kết nguyên nhân của sự việc cho chính cá nhân, dù đáng lẽ là tình huống. Do đó, có thể giải thích, hoặc liên hệ niềm tin này với những dạng thức quy kết nhân quả cụ thể.

Các hướng giải thích khác

Phán đoán thuần túy

Người ta cũng đề xuất những lời giải thích khác cho việc sỉ nhục nạn nhân. Một trong số đó cho rằng hiệu ứng chỉ trích này hình thành từ những nhận định chính xác về tính cách nạn nhân. So với công trình lúc đầu của Lerner, một số người đã cho rằng việc những người đứng ngoài chỉ trích nạn nhân là hợp lý, vì họ chấp nhận bị sốc điện mà không có lý do. Một nghiên cứu sau đó (cũng của Lerner) đã phản bác giả thuyết này bằng cách cho thấy chỉ khi thực sự đau khổ, họ mới bị chỉ trích. Số chấp nhận nhưng lại không phải chịu đựng sẽ được nhìn nhận tích cực hơn.

Giảm cảm giác tội lỗi

Khi giả thuyết thế giới công bằng mới bắt đầu phát triển, người ta giải thích rằng những người quan sát chỉ trích nạn nhân để tự họ bớt cảm thấy tội lỗi. Vì những người này biết mình đang tham gia vào tình huống đó, họ sẽ cảm thấy phải chịu trách nhiệm (hoặc tội lỗi) cho sự đau khổ của nạn nhân. Vì không muốn chịu đựng cảm giác này, họ sẽ chỉ trích nạn nhân. Lerner và các cộng sự của ông cho rằng hướng giải thích này chưa có bằng chứng xác thực cụ thể. Một nghiên cứu sau đó của họ đã cho thấy nạn nhân vẫn bị nhóm quan sát hoàn toàn độc lập chỉ trích, dù những người này không tham gia vào thí nghiệm và không có lý do gì để cảm thấy tội lỗi. nếu khôi phục niềm tin thế giới công bằng là động cơ chính, sỉ nhục nạn nhân sẽ khiến họ được hoàn trả cảm xúc ít hơn, nhưng dù sự hoàn trả xảy ra trước hay sau khi sỉ nhục, lượng cảm xúc hoàn lại cũng gần như không chênh lệch. Bệnh nhân cách có mối liên hệ với việc thiếu các phản ứng duy trì thế giới công bằng; nguyên nhân có lẽ là do các phản ứng cảm xúc bị kìm hãm và không được đồng cảm.

Bằng chứng bổ sung

Sau chuỗi thí nghiệm nền móng của Lerner, các nhà nghiên cứu khác đã thu được kết quả tương tự ở nhiều tình huống nạn nhân hoá con người. Từ 1970 đến nay, công trình này đã khảo sát cách người ngoài phản ứng với nạn nhân tai nạn giao thông, hiếp dâm, bạo lực gia đình, bệnh tật và nghèo đói.

Đầu những năm 1970, hai nhà tâm lý học xã hội Zick Rubin và Letitia Anne Peplau đã phát triển một phương pháp đo mức độ tin tưởng vào thế giới công bằng. Sau khi phương pháp này và biến thể sửa đổi của nó được xuất bản năm 1975, hầu hết các nghiên cứu tiếp theo đều dùng thang đo này để so sánh niềm tin ở những đối tượng khác nhau.

Các nghiên cứu về nạn nhân bạo lực, bệnh tật, nghèo đói và những vấn nạn khác đã cho thấy những bằng chứng tương đồng chứng minh mối liên hệ giữa niềm tin thế giới công bằng của những người quan sát và xu hướng quy kết nỗi khổ cho nạn nhân. Các thí nghiệm tái diễn cũng thu được kết quả tương tự, dù một số biến thể sử dụng "kết thúc có hậu" (một lời cầu hôn) thay cho cảnh cưỡng hiếp.

Hiện tượng tương tự cũng diễn ra khi công chúng phán xét các nạn nhân của bạo lực gia đình. Một nghiên cứu cho thấy mức độ phán xét nạn nhân nữ bị bạo hành tỷ lệ thuận với sự thân thiết của mối quan hệ. Những người ngoài cuộc chỉ quy kết trách nhiệm cho thủ phạm khi hành vi bạo lực xảy ra quá rõ ràng - một người đàn ông đánh người quen.

Bắt nạt

Một số nhà nghiên cứu sử dụng giả thuyết thế giới công bằng để hiểu được hành vi bắt nạt. Theo những nghiên cứu khác về niềm tin thế giới công bằng, người ngoài thường có xu hướng sỉ nhục và đổ lỗi cho các nạn nhân, nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược: những người tin vào thế giới công bằng có thái độ chống bắt nạt mạnh mẽ hơn. Những nghiên cứu khác cũng chỉ ra sự tương quan giữa niềm tin thế giới công bằng và hành vi bắt nạt. Điều này phù hợp với phát hiện của Lerner: niềm tin thế giới công bằng có tác dụng như một "hợp đồng" điều chỉnh hành vi. như đã được chỉ ra đối với dân số nói chung.

Bệnh tật

Các nhà nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng những người ngoài cuộc sẽ quy kết bệnh tật của ai đó là hệ quả từ hành vi của chính họ. Một thí nghiệm đã cho thấy những người mắc nhiều loại bệnh sẽ bị coi là không hấp dẫn bằng những người khỏe mạnh. So với số khoẻ mạnh hơn, các nạn nhân bị chỉ trích này thường là người bị khó tiêu, viêm phổi hoặc ung thư dạ dày. Chứng bệnh càng nặng, bệnh nhân càng bị chỉ trích, trừ những người ung thư. Niềm tin thế giới công bằng cũng tương quan với sự sỉ nhục các bệnh nhân AIDS.

Nghèo đói

Gần đây, các chuyên gia đã tiến hành nhiều nghiên cứu để tìm hiểu cách mọi người nhìn vấn nạn nghèo đói thông qua giả thuyết thế giới công bằng. Niềm tin càng mạnh, họ càng dễ đổ lỗi cho chính những người nghèo. Số không tin thì cho rằng nghèo đói là hệ quả của các tác nhân ngoại vi, gồm hệ thống kinh tế thế giới, chiến tranh và bóc lột.

Khi bản thân là nạn nhân

Một số nghiên cứu niềm tin thế giới công bằng đã tiến hành xem xét cách mọi người phản ứng khi chính họ là nạn nhân. Trong một bài báo, Tiến sĩ Ronnie Janoff-Bulman cho biết các nạn nhân hiếp dâm thường nghĩ chính hành vi của họ (không phải tính cách) đã khiến họ trở thành nạn nhân. Người ta giả thuyết rằng sự quy kết này xảy ra là vì việc đổ lỗi cho hành vi bản thân sẽ khiến sự kiện chính có vẻ có nhiều tính kiểm soát hơn.

Tinh chỉnh

Những công trình đo mức độ tin tưởng sau này tập trung nhiều vào việc xác định những khía cạnh khác, từ đó phát triển thêm các nhận định mới về niềm tin thế giới công bằng và nghiên cứu bổ sung. niềm tin công lý nội tại và tuyệt đối, kỳ vọng công lý và niềm tin rằng người nào đó có thể giảm thiểu bất công. Những nghiên cứu khác cho thấy người ta có thể có những niềm tin thế giới công bằng khác nhau với cá nhân, chính trị, xã hội...

Tương quan

Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng thang đo tin tưởng để kiểm nghiệm các mối tương quan của niềm tin thế giới công bằng ở hai mức cao và thấp.

Một vài nghiên cứu khảo sát những liên hệ về tư tưởng đã phát hiện niềm tin thế giới công bằng có mối tương quan chính trị - xã hội với chủ nghĩa chuyên chế cánh hữu, luân lý của đạo Tin lành và một vài khía cạnh của tôn sùng.

Các nghiên cứu có phân biệt về nhân khẩu, kể cả giới tính và chủng tộc, cho thấy không có khác biệt nào mang tính hệ thống, nhưng phát hiện ra những chủng tộc khác nhau sẽ có mức tin khác nhau. Kết luận được đưa ra là người da đen và người Mỹ gốc Phi ít tin tưởng vào thế giới công bằng nhất.

Nhờ có sự phát triển của phép đo mức độ tin tưởng vào thế giới công bằng, các nhà nghiên cứu đã có thể so sánh và chỉ ra niềm tin được thể hiện rất rõ ràng giữa các nền văn hóa khác nhau. Một nghiên cứu khảo sát niềm tin này ở các sinh viên đến từ 12 quốc gia cho thấy niềm tin thế giới công bằng sẽ yếu hơn ở những nơi phần lớn người dân không có quyền lực. Kết quả này phù hợp với thuyết thế giới công bằng, bởi lẽ những kinh nghiệm cá nhân và xã hội của họ đã chứng minh thế giới không hề công bằng hay có thể đoán trước. 

Niềm tin thế giới bất công có liên quan đến gia tăng mức độ tự chấp, khả năng phạm tội, phòng vệ đối ứng, bực bội và rủi ro trong tương lai, cũng như giúp một số người bảo vệ cái tôi của họ, bằng cách biện minh cho cho một số cá nhân bằng cách biện minh cho những hành vi không phù hợp.

Những nghiên cứu hiện nay

Tác động tích cực đến sức khỏe tâm thần

Dù phần lớn các nghiên cứu ban đầu về niềm tin tập trung vào hệ quả tiêu cực với xã hội, nhưng cũng có nghiên cứu khác cho thấy sự tin tưởng này là tốt, và thậm chí cần thiết cho sức khỏe tâm thần. Càng tin vào thế giới công bằng, người ta càng dễ hài lòng và hạnh phúc trong cuộc sống, cũng như ít có cảm xúc tiêu cực hơn. Các nhà nghiên cứu hiện vẫn đang khám phá lý do dẫn đến mối liên hệ này giữa niềm tin thế giới công bằng và sức khỏe tâm thần. Một giả thuyết cho rằng niềm tin này đóng vai trò một nguồn lực cá nhân hoặc phản ứng đối phó, giúp con người giảm căng thẳng trong cuộc sống thường ngày hoặc khi chứng kiến các sự kiện có thể gây thương tổn. Nói cách khác, niềm tin thế giới công bằng là một loại ảo tưởng tích cực. Những nghiên cứu gần đây cũng cho rằng niềm tin thế giới công bằng sẽ có thể giải thích mối liên hệ thống kê giữa sức khoẻ tinh thần và tín ngưỡng/tâm linh.

Các nghiên cứu quốc tế

Hơn 40 năm sau công trình của Lerner, nhiều nghiên cứu về hiện tượng này vẫn được tiến hành, chủ yếu ở Hoa Kỳ và ba châu lục Âu, Úc, Á. Gần đây, những đóng góp to lớn của các nhà nghiên cứu người Đức đã góp phần hình thành tác phẩm Những câu trả lời cho nạn nhân và niềm tin vào một thế giới công bằng (1998), do Leo Montada (người Đức) và Lerner đồng biên tập.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguỵ biện thế giới công bằng** hay **giả thuyết thế giới công bằng** là một thiên kiến nhận thức. Theo thiên kiến này, những hành vi của một cá nhân sẽ có khuynh hướng tự
Đây là danh sách các nhân vật trong light novel _RE:ZERO - Bắt đầu lại ở thế giới khác_ cùng với phiên bản anime và manga của nó. thumb|Các nhân vật trung tâm của loạt
thumb|Chiếc [[cúp FIFA World Cup.]] **Giải vô địch bóng đá thế giới**, hay còn gọi là **Cúp bóng đá thế giới**, tên chính thức là **FIFA World Cup**, thường được gọi đơn giản là **World
Tổ chức Bia tượng thế giới công bố danh sách những Di sản văn hóa thế giới đang bị đe doạ trong năm 2010. Dưới đây là một số di sản tiêu biểu nằm trong
**Giải vô địch cờ vua thế giới 1972** là trận đấu cho Giải vô địch cờ vua thế giới giữa người thách đấu Bobby Fischer của Hoa Kỳ và đương kim vô địch Boris Spassky
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
nhỏ|Đương kim vô địch thế giới [[Gukesh Dommaraju người Ấn Độ|290x290px]] **Giải vô địch cờ vua thế giới** là giải đấu được tổ chức để xác định nhà vô địch thế giới về cờ vua.
**Giả thuyết UFO quân sự** hay **giả thuyết quân sự** nhằm đưa ra lời giải thích UFO thực ra là một loại máy bay thử nghiệm bí mật được phát triển dành cho mục đích
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Giả thuyết thị trường hiệu quả** (hay lý thuyết thị trường hiệu quả; tiếng Anh: _efficient market hypothesis_) là một giả thuyết của lý thuyết tài chính khẳng định rằng _các thị trường tài chính
, thường gọi đơn giản là **_Re:Zero_**, là một bộ light novel Nhật Bản được viết bởi Nagatsuki Tappei và được minh họa bởi Ōtsuka Shin'ichirō. Câu chuyện xoay quanh Natsuki Subaru, một _hikikomori_ đột
nhỏ|Phần thực (màu đỏ) và phần ảo (màu xanh) của hàm zeta Riemann dọc theo đường giới hạn Re(_s_) = 1/2. Các không điểm phi tầm thường đầu tiên tại Im(_s_) = ±14,135; ±21,022 và
**Giải vô địch cờ vua thế giới 2021** bao gồm nhiều giải đấu cờ vua để lựa chọn ra nhà thách đấu và kết thúc bằng trận đấu tranh ngôi giữa đương kim vua cờ
**Thế giới phù thủy** (tựa gốc tiếng Anh: **Wizarding World**, trước đây gọi là **Thế giới phù thủy của J. K. Rowling**) là một thương hiệu truyền thông giả tưởng và vũ trụ hư cấu
**Giả thuyết Kurgan**, còn gọi là **thuyết thảo nguyên**, **thuyết Kurgan** hay **mô hình Kurgan**, là giả thuyết được công nhận rộng rãi nhất ngày nay về nguồn gốc phát tích và phát triển của
**Trung tâm Thương mại Thế giới** (tiếng Anh: _World Trade Center_, viết tắt **WTC**; cũng được gọi **Tòa tháp đôi**) là tên gọi ban đầu cho cả tổ hợp bảy tòa nhà trước đây nằm
**Giả thuyết vườn thú** là một trong các đề xuất được đưa ra để giải quyết nghịch lý Fermi, liên quan đến việc không có chứng cứ rõ ràng cho sự tồn tại của một
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
**Giải vô địch thế giới _Liên Minh Huyền Thoại**_ (tiếng Anh: _**League of Legends_ World Championship**) là một giải đấu thể thao của trò chơi điện tử _Liên_ _Minh_ _Huyền_ _Thoại_ được tổ chức hàng
Trong lý thuyết số, **giả thuyết yếu của Goldbach**, còn được gọi là **giả thuyết Goldbach lẻ**, hay **bài toán 3 số nguyên tố**, được phát biểu là : Mọi số lẻ lớn hơn 5
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**One World Trade Center** (**Trung tâm Thương mại Thế giới số Một**), cũng được biết đến với cái tên **Freedom Tower** (Tháp Tự Do) và là tòa nhà chính của 7 Trung tâm Thương mại
**Nhạc thế giới** hay **nhạc toàn cầu**, **nhạc quốc tế** (tiếng Anh: _world music_, _global music_ hay _international music_) là một thuật ngữ có nhiều định nghĩa đa dạng khác nhau, nhưng thường chủ yếu
nhỏ| Một nghệ sĩ vẽ lại đám mây Oort và [[vành đai Kuiper (hình nhỏ) ]] **Tyche** là một hành tinh khí khổng lồ giả thuyết nằm trong Hệ mặt trời tại đám mây Oort,
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
phải|nhỏ| Zukertort và Steinitz, New Orleans 1886 (khắc gỗ) **Giải vô địch cờ vua thế giới năm 1886** là trận đấu tranh ngôi vô địch cờ vua thế giới chính thức đầu tiên, giữa Wilhelm
Thế Giới Giả LậpBạn có bao giờ tự hỏi Thế Giới Thực mà chúng ta đang sống, đang tồn tại, có khi nào là thế giới GIẢ LẬP không? Với tôi, thì khả năng rất
Bạn có bao giờ tự hỏi Thế Giới Thực mà chúng ta đang sống, đang tồn tại, có khi nào là thế giới GIẢ LẬP không? Với tôi, thì khả năng rất cao thế giới
Bạn có bao giờ tự hỏi Thế Giới Thực mà chúng ta đang sống, đang tồn tại, có khi nào là thế giới GIẢ LẬP không? Với tôi, thì khả năng rất cao thế giới
**Giải bóng đá vô địch thế giới 1930** là giải bóng đá vô địch thế giới đầu tiên (tên chính thức là **1930 Football World Cup - Uruguay / _1er Campeonato Mundial de Football**_) và
**Giả thuyết Silur** là một thí nghiệm tư duy Họ viết, "Đôi lúc chúng tôi nghi ngờ rằng bất kỳ nền văn minh công nghiệp nào trước đó đều tồn tại trước thời đại của
**Giải vô địch cờ vua thế giới năm 1975** gồm một chuỗi các giải đấu để chọn ra nhà vô địch thế giới. Tuy nhiên trận tranh ngôi vua cờ không tổ chức được do
nhỏ|270x270px|_[[Viên bi xanh_, bức ảnh chụp hành tinh Trái đất được thực hiện vào ngày 7 tháng 12 năm 1972 bởi phi hành đoàn của tàu vũ trụ Apollo 17.]] phải|Thế giới phải|Bản đồ thế
**Trận đấu giữa hai đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản và Iraq**, nằm trong khuôn khổ lượt trận cuối cùng của vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 khu vực
**Giải vô địch bóng rổ thế giới** (**FIBA Basketball World Cup**, trước là **FIBA World Championship** từ 1950-2010) là giải vô địch thế giới dành cho cấp độ đội tuyển quốc gia cho các đội
**Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ** (tên gốc tiếng Anh: **_Jurassic World: Fallen Kingdom_**) là một bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng Mỹ năm 2018 và là phần tiếp nối của
**Giả thuyết nhà du hành thời gian**, còn gọi là **UFO viễn khách thời gian**, **con người tương lai**, **mô hình ngoài thời gian** và **thuyết Kẻ hủy diệt** là đề xuất cho rằng vật
**_Thế giới khi loài người biến mất_** (tiếng Anh: _The World Without Us_) là một tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu của nhà báo người Mỹ Alan Weisman. Quyển sách được xuất bản
**_Vòng quanh thế giới trong 80 ngày_** (tiếng Pháp: _Le Tour du monde en quatre-vingts jours_) là một tiểu thuyết phiêu lưu cổ điển của nhà văn Pháp Jules Verne, xuất bản lần đầu tiên
là một light novel do Fuyuhara Patora viết và Usatsuka Eiji minh họa. Bản dịch tiếng Việt do Amak Books phát hành, tập đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 2 năm 2018, do nhà
là một phim anime kỳ ảo công chiếu năm 2010 do Yonebayashi Hiromasa đạo diễn với cốt truyện viết bởi Miyazaki Hayao và Niwa Keiko và hãng Studio Ghibli thực hiện dựa trên cuốn tiểu
**Giả thuyết Kepler**, được đặt theo tên của nhà toán học và nhà thiên văn người Đức Johannes Kepler, là một định lý toán học về xếp hình cầu trong không gian Euclid ba chiều.
**Liên đoàn Taekwondo thế giới** (tiếng Anh: _World Taekwondo_ hay **WT**, trước đây gọi là _World Taekwondo Federation_ hay **WTF**) là một tổ chức được Ủy ban Olympic Quốc tế (_IOC_) công nhận là liên
là tên tiểu thuyết phát hành năm 1985 của nhà văn người Nhật Murakami Haruki. Cũng như nhiều tác phẩm khác của mình, ở đây Murakami sử dụng song song và luân phiên hai tuyến
**_Thế giới của Sophie_** (tiếng Na Uy: **_Sofies verden_**), với tựa đề con **Một tiểu thuyết về lịch sử triết học** (_en roman om filosofiens historie_), là một tiểu thuyết của nhà văn Jostein Gaarder.
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**_Konosuba – Hãy ban phúc lành cho thế giới tuyệt vời này!_**, hay còn được biết tới với tên gốc và gọi tắt là là loạt light novel do Akatsuki Natsume sáng tác và Mishima
**_6 Underground – Đại chiến thế giới ngầm_** (tựa gốc tiếng Anh: **_6 Underground_**) là phim hành động giật gân năm 2019 của Mỹ do Michael Bay đạo diễn, với phần kịch bản do Paul
**_Chariots of the Gods? Unsolved Mysteries of the Past_** (; có nghĩa là _Ký ức về tương lai: Những bí ẩn quá khứ chưa giải đáp_) là một cuốn sách phi hư cấu do Erich