Đình làng là một cơ sở tín ngưỡng quan trọng và chính thức của làng xã xứ ta. Đình không chỉ là nơi thờ tự Thành Hoàng, thần bảo hộ của cộng đồng mà còn là trung tâm văn - xã và thậm chí là trụ sở hành chính của làng. Chính vì vậy, từ lâu đình trở thành biểu tượng phong hóa của cộng đồng.
Lời tục rằng “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” là cách nói văn vẻ, còn thực tế thiết chế văn hóa - tín ngưỡng của làng gồm: “đình - chùa - miễu -võ”; trong đó, đình là trú sở của vị thần được thiên tử cắt đặt nhiệm vụ “bảo ngã lê dân”, tức bảo hộ cộng đồng dân cư sống trong khoảng “đất vua” được xác định là đơn vị hành chính cơ sở - gọi chung là làng, gọi chính thức là thôn/xã. Ở cấp hành chính cao hơn, cấp tỉnh thành, kinh đô, thiết chế văn hóa - tín ngưỡng mang tính chính thống gồm “đàn-miếu-đền-từ”. Như vậy, xét về đại thể, đình là cơ sở tín ngưỡng trung gian nối thiết chế chính thống và thiết chế dân gian. Ở đây, đình thuộc thể chế thờ tự chính thống, từ tín niệm, đối tượng thờ tự đến lễ thức đều tuân theo điển lệ - xét về cơ bản, trừ trường hợp đình làng có hèm; và mặt khác, tùy theo từng tọa độ địa lý - lịch sử cụ thể, đình dung nạp các đối tượng phối tự, tòng tự vào khuôn viên đình hay vào các vị trí phụ thuộc trong đình…
Tính chất phồn tạp của đình bắt nguồn từ lịch sử hình thành và quá trình điển lệ hóa của các triều đại trong lịch sử. Khởi đi từ đình trạm, đình trú - một cơ sở công ích thế tục, đến thế kỷ XIII được lệnh chính thức “dựng tượng Phật để thờ” trong đình và đến cuối thế kỷ XV mới bắt đầu trở thành đình làng và vị thần Thành Hoàng, một cách chính thống là thần bảo hộ các địa điểm quan yếu có thành có hào bao bọc (như kinh đô, tỉnh thành…) giờ đã trở thành thần Bản cảnh / Đương cảnh bảo hộ cho làng mạc, thôn - xã, nơi chẳng có thành cao, hào sâu. Do đó, tập hợp thần Thành Hoàng làng đã kế thừa truyền thống địa phương, theo đó, bao gồm cả nhiên thần, thiên thần và nhân thần, tức các thần linh có nguồn gốc từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, động vật, thực vật, linh vật, vật tổ, tổ tiên, anh hùng, danh nhân lịch sử - văn hóa…
Nói chung, việc phong cấp sắc thần Thành Hoàng, một mặt là điển lệ hóa một trong các thần linh vốn được làng xã tôn thờ lên địa vị chính thức là thần bảo hộ cộng đồng hoặc ban bố cho các làng xã không có sẵn thần linh bằng cách phong tặng một vị thần Thành Hoàng để bảo hộ dân làng của vua. Như đã nói trên, thần Thành Hoàng có nguồn gốc đa tạp, bao gồm cả nhiên thần, thiên thần lẫn nhân thần, song về mặt công năng thì đây là vị thần bảo hộ cộng đồng dân cư của đơn vị hành chính cơ sở là thôn xã. Bởi như chúng ta biết, trong nhiều ngôn ngữ thường có hai từ song tồn để chỉ đất. Trong ngữ cảnh văn hóa Hán - Việt, để chỉ đất có hai từ: Thổ và Địa. Với tư cách là vị thần đã từng “Hộ quốc tí dân” và nay được cắt cử “bảo ngã lê dân”, tức bảo hộ cho cộng đồng dân đen của vua, thần Thành Hoàng làng có trú sở chính thức là đình nên tính chất thiêng quy tụ về đây. Có thể đẳng trật của thần Thành Hoàng là “hạ đẳng thần” không lớn hơn các phúc thần khác được sắc phong là trung / thượng đẳng thần, nhưng thần là chủ thể của bản cảnh nên trong lễ Kỳ yên ở đình, các thần linh trong vùng đều được thỉnh về đình để dự hưởng - gọi là lễ nghinh thần. Cũng có trường hợp đình làng thờ thần Thành Hoàng và đồng thời thờ các thần linh có sắc phong của vua ban cho làng phụng tự. Trong trường hợp này, thần Thành Hoàng dù đẳng trật như thế nào thì vẫn là vị chủ thể của đình và các thần kia có thể đẳng trật được phong cao hơn vẫn được coi là đối tượng phối tự/ tòng tự. Điều này chỉ ra vị trí chính yếu của Bổn cảnh / Đương cảnh thành hoàng đối với tập hợp thần linh của từng làng xã.
Làng xã như vậy có một thần Thành Hoàng bảo hộ, có đình thờ tự và lấy đó làm nơi tổ chức lễ hội và làm nơi hội họp việc làng, có tự điền lấy hoa lợi chi dùng cho việc cúng tế, có bộ máy quan viên/ hương chức quản lý cộng đồng cả về hành chính lẫn phong hóa, rồi thêm vào đó là hương ước xác lập nên lệ làng, một tập hợp lệ luật được lịch sử xác nhận là có hiệu lực lớn hơn phép nước: phép vua thua lệ làng. Thành Hoàng được tiếp tục duy trì như tục lệ của cộng đồng. Một số vùng thành thị, sự xáo trộn dân cư đã khiến một số đình làng biến thành đình hội theo nghĩa đình và việc tế lễ ở đình được duy trì bởi những thành viên có tinh thần bảo thủ truyền thống hơn là của toàn bộ cư dân của làng xã. Các “Hội quý tế”, “Hội linh tế”… ra đời trong thời kỳ này và duy trì mãi về sau này.
Đình làng được bảo tồn đến nay là vậy, nhưng điều đó, không có nghĩa là không trải qua những thử thách. Trước hết, trong chín năm kháng chiến(1945 - 1954) một số đình làng bị dỡ bỏ theo chủ trương toàn dân kháng chiến toàn diện kháng chiến. Rõ ràng, trong đợt này, đình và các công trình kiến trúc khác phải dỡ bỏ vì mục đích ngăn chặn giặc Pháp chiếm làm công sự chống lại lực lượng kháng chiến của ta; song đợt tiêu thổ này, một cách nào đó đã khởi đầu cho công cuộc “đả thực bài phong”, tức ngoài mục đích quân sự - quốc phòng việc làm này còn hàm chứa mục đích xóa bỏ tàn tích phong kiến còn bảo lưu trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước thời điểm 1945 mà các tư trào cải lương phong hóa theo “chủ nghĩa tiến bộ” trước đó đã lên án và coi đó là lực cản của đà tiến bộ. Nói cách khác, một cơ cấu tín ngưỡng - lễ hội chính thức đáp ứng nhu cầu chính đáng như một nền tảng phong hóa, định hướng cho sự đồng nhất cộng đồng và biểu hiện bản sắc văn hóa đa dạng ở từng tọa độ địa lý là chưa định hình và còn đang “diễn biến phức tạp”, chưa có hồi kết. Hiển nhiên tín ngưỡng - lễ hội là nhu cầu của cộng đồng và cũng như các dạng thức văn hóa khác, chúng cũng luôn biến đổi theo sự biến chuyển của lịch sử một cách tự phát lẫn tự giác.
Lễ hội truyền thống ở xứ ta, đa phần là lễ hội nghi lễ, là những biểu hiện cụ thể của một tín ngưỡng bằng một hệ thống nghi lễ và các hình thức diễn xướng cùng các thứ vật chất tương ứng như lễ vật, cờ phướn, tàn lọng, đồ tự khí và những vật phẩm trang nghiêm cho cuộc lễ… Nói cách khác, lễ hội là một chỉnh thể nhằm biểu đạt lòng sùng tín theo một tín lý nhất quán chứ không phải là tổng số của phép cộng hai đại lượng tách biệt lễ và hội như cách hiểu thời thượng trong vài thập kỷ gần đây. Trong xã hội hiện đại, lễ hội cùng lúc có thể giảm bớt / mất tính thiêng, nhưng do yêu cầu cố kết cộng đồng nên lễ hội được duy trì một cách tự giác với những biến thái mới mẻ. Lễ hội giờ đây là một thiết chế bảo vệ sự tái sinh nhằm tái tạo sợi dây liên kết các thành viên của một xã hội – ở đó, điều cốt yếu không phải sự thiêng liêng huyền bí mà là biểu tượng của tinh thần cộng đồng hàm chứa sự thiêng liêng của lịch sử - văn hóa - chính trị.
Trong viễn tượng phát triển của xã hội hiện đại, việc giải phóng con người ra khỏi sự thần bí mê tín hướng đến việc xác lập cơ sở cho sự chánh tín hẳn chúng ta phải lưu tâm đến việc xây dựng một nội dung thờ tự cũng như một kịch bản lễ hội tương ứng cho đình làng; thậm chí nghi thức tế tự, văn tế truyền thống được xướng đọc theo âm Hán tự cũng cần được Việt hóa bằng chữ quốc ngữ thì may ra mới được thế hệ dân cư đương đại, đặc biệt là giới trẻ hiểu được. Phàm hữu tri mới khả mộ là vậy.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
VNĐ: 103,200
Đình Nam bộ xưa và nay Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường Đình làng là một cơ sở tín ngưỡng quan trọng và chính thức của làng xã xứ ta. Đình không chỉ
Lễ Tục Trong Gia Đình Người Việt Xưa Và Nay Trong lịch sử phát triển, mỗi dân tộc đã hình thành những tập tục và nghi lễ mang màu sắc văn hoá đặc thù. Ở
Đình làng là một cơ sở tín ngưỡng quan trọng và chính thức của làng xã xứ ta. Đình không chỉ là nơi thờ tự Thành Hoàng, thần bảo hộ của cộng đồng mà còn
Kiến Trúc Đô Thị Và Cảnh Quan Sài Gòn - Chợ Lớn Xưa Và Nay Nhà xuất bản : Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Văn Nghệ. Công ty phát hành : NXB Văn Hóa
TẾT VIỆT - Tạp Chí Xưa Và Nay - Nhiều tác giả - (bìa mềm) - Giá bìa: 159.000đ Tết Nguyên Đán là ngày lễ cổ truyền thiêng liêng, trọng đại, mang nhiều ý nghĩa,
LÝ THUYẾT QUÂN SỰ TRUNG HOA XƯA VÀ NAY TB1 2019 Tác giả: CHEN-YA TIEN Dịch và chú thích: Nguyễn Duy Chính Trong lịch sử, văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng lên nước ta là điều không ai
Đông Nam Bộ (màu tím) và Tây Nam Bộ (màu hồng) **Nam Bộ** (hay còn gọi là **miền Nam**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và
Đình Mỹ Phước **Đình làng Nam Bộ** (người miền Nam hay gọi tắt là **đình thần**) là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn. Nhìn chung ở Nam
Kiến Trúc Đô Thị Và Cảnh Quan Sài Gòn - Chợ Lớn Xưa và Nay Lời nói đầu Cuốn sách này ra mắt bạn đọc là do sự hợp tác của các tác giả Nguyễn
Combo 2c của Tác giả Trần Quang Đức: Sách khảo cứu có giá trị về trang phục Việt Nam từ xưa đến nay và nghệ thuật trà Việt Nam. Sách in màu toàn bộ, giấy
Combo 2c của Tác giả Trần Quang Đức: Sách khảo cứu có giá trị về trang phục Việt Nam từ xưa đến nay và nghệ thuật trà Việt Nam. Sách in màu toàn bộ, giấy
“Nước Việt Nam từ xưa tới nay vẫn có những phong tục lễ nghi riêng của dân tộc, phong tục lễ nghi này đã tạo nên con người Việt có những đặc tính riêng đáng
Quyển ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ KHẢO VÀ LUẬN của Nguyễn Phúc An ra đời đúng với sự mong đợi của các tầng lớp nhạc sĩ và nhạc sinh âm nhạc dân tộc
Đại Nam Quốc sử diễn ca là một trong các bộ sử ca của lịch sử học Việt Nam mà cũng là của văn học sử cổ cận đại Việt Nam. Bộ sử ca này nguyên
Tranh dân gian Việt Nam Tái bản (Bìa cứng) Tái bản có chỉnh sửa, hiệu đính, bổ sung Sách đoạt giải B - Giải thưởng sách Quốc gia năm 2019 Sưu tầm và nghiên cứu: Maurice
Pierre Pasquier (1877-1934), tác giả của cuốn sách An Nam thời xưa, Tiểu luận về hệ thống tổ chức An Nam trước khi có sự can thiệp của Pháp (L’annam d’autrefois. Essai sur la constitution
Tác giả Tôn Thất Thọ xuất thân là một nhà giáo, nguyên là Hiệu trưởng trường Trung học sơ sở ở Bình Phước, anh còn có bút danh Tôn Châu Quân, cộng tác viên th
An Nam Thời Xưa ------------ Pierre Pasquier (1877-1934), tác giả của cuốn sách An Nam thời xưa, Tiểu luận về hệ thống tổ chức An Nam trước khi có sự can thiệp của Pháp (L’annam
Tác giả Tôn Thất Thọ xuất thân là một nhà giáo, nguyên là Hiệu trưởng trường Trung học sơ sở ở Bình Phước, anh còn có bút danh Tôn Châu Quân, cộng tác viên th
Tranh Dân Gian Việt Nam Sưu Tầm Và Nghiên Cứu (Bìa Cứng) Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nung nấu ý định ấn hành bản Việt ngữ công trình Tranh dân gian Việt Nam
Tranh Dân Gian Việt Nam Sưu Tầm Và Nghiên Cứu (Bìa Mềm) Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nung nấu ý định ấn hành bản Việt ngữ công trình Tranh dân gian Việt Nam
Tranh Dân Gian Việt Nam Sưu Tầm Và Nghiên Cứu (Bìa Cứng) Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nung nấu ý định ấn hành bản Việt ngữ công trình Tranh dân gian Việt Nam
Tranh Dân Gian Việt Nam Sưu Tầm Và Nghiên Cứu (Bìa Mềm) Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nung nấu ý định ấn hành bản Việt ngữ công trình Tranh dân gian Việt Nam
Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nung nấu ý định ấn hành bản Việt ngữ công trình Tranh dân gian Việt Nam của Maurice Durand do Viện Viễn Đông Bác Cổ xuất bản lần
Pierre Pasquier (1877-1934), tác giả của cuốn sách An Nam thời xưa, Tiểu luận về hệ thống tổ chức An Nam trước khi có sự can thiệp của Pháp (L’annam d’autrefois. Essai sur la constitution
Giới thiệu sách Pierre Pasquier (1877-1934), tác giả của cuốn sách An Nam thời xưa, Tiểu luận về hệ thống tổ chức An Nam trước khi có sự can thiệp của Pháp (L’annam d’autrefois. Essai sur
Pierre Pasquier (1877-1934), tác giả của cuốn sách An Nam thời xưa, Tiểu luận về hệ thống tổ chức An Nam trước khi có sự can thiệp của Pháp (L’annam d’autrefois. Essai sur la constitution
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
Nhà phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: Thế Giới Tác giả: Trung Chính Quách Trọng Trà Hiệu đính: Bùi Xuân Đính Số trang: 287 Kích thước: 15.5x24 cm Ngày phát hành: 2025 Loại bìa:
Combo Thọ Mai Gia Lễ + 100 Điều Nên Biết Về Phong Tục Việt Nam (Bộ 2 Cuốn) 1. Thọ Mai Gia Lễ - Phong Tục Dân Gian Về Tục Cưới Hỏi Ma Chay
Đình làng là một cơ sở tín ngưỡng quan trọng và chính thức của làng xã xứ ta. Đình không chỉ là nơi thờ tự Thành Hoàng, thần bảo hộ của cộng đồng mà còn
Dựa trên nền tảng truyền thống, các giá trị lớn của ngành y Việt Nam từ xưa đến nay, đồng thời mong muốn mang lại cho người dân dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng
Hội đua bò Bảy Núi là nét đặc trưng riêng biệt của tỉnh An Giang, là một dạng thức lễ hội nông nghiệp độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ ở vùng
Sách - Tiểu Sử Và Hành Trạng Các Nhà Khoa Học Bảng Hán Học Nam Bộ "Trong vòng 51 năm (1813 - 1864) mà 6 tỉnh toàn Nam Kỳ chỉ có 257 vị Cử nhân
Đình làng là một cơ sơ tín ngương quan trọng và chính thưc của làng xã xư ta. Đình không chỉ là nơi thờ tự Thành Hoàng, thân bảo hộ của cộng đồng mà con
**Nhạc lễ Nam Bộ** là loại nhạc chuyên phục vụ cho các nghi thức quan trọng, hôn lễ, tang lễ, cúng tế. Bắt nguồn từ nhạc lễ cung đình xưa, miền Bắc, một số tỉnh
Ông Già Nam Bộ Nhiều Chuyện - Góc Khuất Dưới Chưn Đèn Nhà xuất bản : Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Công ty phát hành : Phương Nam Book. Tác giả : Trần Bảo
Sài Gòn từ lâu đã trở thành “nam châm” thu hút dòng người, dòng tiền và công nghệ từ khắp nơi hội tụ. Thành phố không ngừng lớn mạnh về dân số, không gian đô
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca Đại Nam Quốc sử diễn ca là một trong các bộ sử ca của lịch sử học Việt Nam mà cũng là của văn học sử cổ cận đại
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca Đại Nam Quốc sử diễn ca là một trong các bộ sử ca của lịch sử học Việt Nam mà cũng là của văn học sử cổ cận đại
1. Đại Nam Quốc sử diễn ca là một trong các bộ sử ca của lịch sử học Việt Nam mà cũng là của văn học sử cổ cận đại Việt Nam. Bộ sử ca này nguyên
Phố cổ Thành Nam ngày nay. Ảnh chụp phố Hàng Sắt. Phố cổ Thành Nam xưa. Ảnh chụp khu phố của Hoa kiều. **Phố cổ Thành Nam** hay **phố cổ Nam Định** là khu vực
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
Dưới đây là **danh sách chương trình truyền hình đã và đang được phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam**, được chia theo kênh và trạng thái phát sóng. Danh sách này không bao
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
1. Một tháng ở Nam kỳ NỘI DUNG CHÍNH “Một tháng ở Nam kỳ” – chuyến du ký về những địa danh nổi tiếng ở Nam Kỳ hơn 100 năm trước của Phạm Quỳnh. “Một
1. Một tháng ở Nam kỳ NỘI DUNG CHÍNH “Một tháng ở Nam kỳ” – chuyến du ký về những địa danh nổi tiếng ở Nam Kỳ hơn 100 năm trước của Phạm Quỳnh. “Một
Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa: tập 3 Tác giả: Trần Thuận Phó Giáo sư Tiến sĩ Sử học Sinh ngày 02.12.1957 Quê quán: Thừa Thiên Huế Từ 1977 – 1986 dạy
_[[Chiếu dời đô_ – bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.|thế=]] nhỏ|330x330px|Một góc phố Hà Nội đêm 10 tháng 10 năm 2010 **Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà