✨Dante Alighieri

Dante Alighieri

Durante degli Alighieri (), thường được biết với tên gọi ngắn gọn Dante Alighieri hay, đơn giản hơn, Dante (; , ; – 1321), là một nhà thơ lớn người Ý vào giai đoạn Hậu kỳ Trung Cổ. Tác phẩm Thần khúc (La Divina Commedia) của ông, nguyên gốc là ' (tiếng Ý hiện đại: Commedia) và sau đó được đặt tên thánh là ' bởi Giovanni Boccaccio, được coi là tập thơ quan trọng nhất của thời kỳ Trung Cổ và là tác phẩm văn học vĩ đại nhất bằng tiếng Ý.

Vào cuối thời kỳ Trung Cổ, hầu hết thơ ca được viết bằng tiếng Latin, chỉ những độc giả có học thức nhất mới có thể tiếp cận được. Tuy nhiên, trong De vulgari eloquentia (Về hùng biện bằng tiếng bản xứ), Dante đã bảo vệ việc sử dụng tiếng bản xứ trong văn chương. Ông thậm chí sẽ viết bằng phương ngữ Toscana trong các tác phẩm như Cuộc đời mới (La Vita Nuova, 1295) và Thần khúc; sự lựa chọn không chính thống này đã đặt ra một tiền lệ mà những nhà văn Ý quan trọng như Petrarch và Boccaccio sẽ tiếp nối.

Dante đã đóng vai trò chủ đạo trong việc kiến tạo nền văn học Ý, và những miêu tả của ông về Địa ngục (Hell), Luyện ngục (Purgatory) và Thiên đàng (Heaven) đã mang tới nguồn cảm hứng cho sự định hình ở quy mô lớn hơn của nghệ thuật phương Tây. Ông được trích dẫn có ảnh hưởng đến John Milton, Geoffrey Chaucer và Alfred Tennyson, trong số nhiều người khác. Ngoài ra, việc sử dụng lần đầu tiên của hệ thống vần ba dòng lồng nhau, hay terza rima, là do ông khởi xướng. Ở Ý, ông thường được gọi là ' ("Nhà thơ tối cao") và ' ("Nhà thơ"); ông, Petrarch, và Boccaccio cũng được gọi là "ba suối nguồn" hoặc "ba ngôi".

Cuộc đời

Niên thiếu

Dante sinh tại Firenze, Cộng hoà Firenze, nay thuộc Ý. Không rõ ngày sinh chính xác của ông, mặc dù người ta thường cho rằng ông sinh khoảng năm 1265. Điều này có thể được suy ra từ những ám chỉ mang tính tự bạch trong Thần khúc. Phần đầu tiên của nó, Hoả ngục (Inferno), bắt đầu với câu "Nel mezzo del cammin di nostra vita" ("Con đường đời tôi đã đi đến nửa"), ngụ ý rằng Dante đã khoảng 35 tuổi, bởi tuổi thọ trung bình theo Kinh Thánh (Thi Thiên 89:10, Vulgate) là 70 tuổi; và kể từ khi chuyến du hành tưởng tượng của ông đến âm phủ diễn ra vào năm 1300, ông có lẽ được sinh vào khoảng năm 1265. Một số câu thơ của phần Thiên đàng (Paradiso) trong Thần khúc cũng cung cấp một đầu mối có thể cho rằng ông được sinh ra dưới chòm Song Tử: "Cái chật hẹp của mặt đất cũng sinh ra tàn bạo, - Tôi chuyển đi cùng sao Song tử bất diệt - Trước tôi, hiện ra tất cả, từ đồi núi đến bờ biển, - Rồi mắt tôi quay lại với đôi mắt xinh đẹp" (XXII 151–154). Năm 1265, mặt trời nằm ở cung Song Tử trong khoảng từ 11 tháng 5 tới 11 tháng 6 (lịch Julius).

Giovanni Boccaccio mô tả ngoại hình và thái độ ứng xử của Dante như sau: "nhà thơ có chiều cao trung bình, và trong những năm sau này, ông hơi còng một chút, với dáng đi từ tốn và nhẹ nhàng. Ông luôn ăn mặc trang phục chỉnh tề nhất, như để phù hợp với những năm chín chắn trưởng thành. Khuôn mặt ông dài, mũi của ông hơi khoằm, và mắt ông to chứ không nhỏ. Xương hàm của ông lớn, và môi dưới nhô ra. Ông có một làn da nâu, tóc và râu dày, đen và xoăn, và vẻ bề ngoài luôn u sầu và đầy tự lự."

thumb|left|upright|Chân dung Dante, từ một bức bích hoạ (fresco) ở Palazzo dei Giudici, Firenze Dante nói rằng gia đình của ông là hậu duệ của người La Mã cổ đại (Hoả ngục, XV, 76), nhưng người họ hàng đầu tiên ông có thể nhắc đến bằng tên là Cacciaguida degli Elisei (Thiên đàng, XV, 135), người không sinh ra trước năm 1100. Cha của Dante, Alaghiero

Gia đình Dante trung thành với phe Guelfo, một liên minh chính trị ủng hộ Giáo hoàng và tham gia vào sự đối đầu phức tạp đối với phe Ghibellini, những người được hậu thuẫn bởi Hoàng đế La Mã Thần thánh. Mẹ của nhà thơ là Bella, có thể là một thành viên của gia tộc Abati. Loại hôn nhân đính ước ở lứa tuổi này khá phổ biến và bao gồm một buổi lễ chính thức, bao gồm những bản đính ước đã ký trước mặt một công chứng viên. Nhưng trong thời gian này, Dante đã mang lòng yêu người khác, Beatrice Portinari (còn gọi là Bice), người mà ông gặp lần đầu khi mới 9 tuổi. Nhiều năm sau khi kết hôn với Gemma, ông tuyên bố đã gặp lại Beatrice; ông đã viết nhiều bản sonnet cho Beatrice nhưng chưa bao giờ đề cập đến Gemma trong bất kỳ bài thơ nào của mình. Ngày chính xác của cuộc hôn nhân của ông không được biết tới: thông tin chắc chắn duy nhất là, trước khi ông lưu vong vào năm 1301, ông có ba người con (Pietro, Jacopo và Antonia). Chiến thắng này mang lại một sự cải cách cho hiến pháp Firenze. Để tham gia vào nền chính trị công, người ta phải ghi danh vào một trong nhiều phường hội thương mại hoặc nghệ nhân của thành phố, vì vậy Dante đã gia nhập Phường hội của Bác sĩ và Người bào chế thuốc (Physicians' and Apothecaries' Guild). Trong những năm sau, tên của ông đôi khi được ghi lại là có phát biểu hoặc bỏ phiếu trong các hội đồng khác nhau của nước cộng hòa. Tuy nhiên, một phần đáng kể số biên bản từ các cuộc họp như vậy trong những năm 1298–1300 đã bị thất lạc, do đó, mức độ thật sự sự tham gia của Dante vào các hội đồng thành phố là không chắc chắn.

Gemma đã sinh cho Dante nhiều đứa con. Mặc dù nhiều người khác sau đó được cho là con cái của ông, có khả năng chỉ có Jacopo, Pietro, Giovanni và Antonia là những đứa con thực sự của ông. Antonia sau này trở thành một nữ tu, lấy cái tên Xơ Beatrice.

Học vấn và thi ca

Không có nhiều điều được biết về học vấn của Dante; ông có lẽ được học ở nhà hoặc trong một trường học thuộc một nhà thờ hay tu viện ở Firenze. Người ta biết rằng ông đã nghiên cứu thơ ca Toscana và ngưỡng mộ các tác phẩm của nhà thơ người Bologna Guido Guinizelli—người mà trong Luyện ngục (Purgatorio) - XXVI, ông mô tả là "cha" của mình—tại thời điểm khi trường phái Sicilia (Scuola poetica Siciliana), một nhóm văn hóa từ Sicilia, đã trở nên nổi tiếng ở Toscana. Niềm hứng thú của ông đã dẫn dắt ông tới khám phá những bài thơ bằng tiếng Provençe của những người hát rong, như Arnaut Daniel, và các nhà văn Latin cổ đại cổ điển, bao gồm Cicero, Ovid và đặc biệt là Virgil.

left|thumb|upright|Tượng Dante tại [[Uffizi, Firenze]] Dante nói rằng ông lần đầu gặp Beatrice Portinari, con gái của Folco Portinari, ở tuổi lên chín, và tuyên bố đã yêu cô "ngay từ cái nhìn đầu tiên", mà dường như không nói chuyện với cô. Ông gặp cô thường xuyên sau 18 tuổi, thường xuyên chào hỏi trên đường phố, nhưng không bao giờ biết quá rõ về cô. Trong thực tế, ông đã thiết lập một ví dụ về cái gọi là tình yêu phong nhã (courtly love), một hiện tượng được phát triển trong thi ca Pháp và Provençe ở các thế kỷ trước. Trải nghiệm về tình yêu như Dante khá điển hình, nhưng biểu hiện của ông về nó là hoàn toàn độc nhất. Bởi tình yêu này mà Dante để lại dấu ấn của anh ta trên dolce stil novo (phong cách ngọt ngào mới, một thuật ngữ mà Dante tự đặt ra), và ông sẽ tham gia cùng các nhà thơ và nhà văn đương đại khác để khám phá những khía cạnh chưa từng được nhấn mạnh của tình yêu (Amore). Tình yêu dành cho Beatrice (như Petrarch sẽ cho Laura một chút khác biệt) sẽ là lý do cho thơ ca và cho cuộc sống của ông, cùng với niềm đam mê về chính trị. Trong nhiều bài thơ của mình, cô được mô tả với một nửa thần thánh, liên tục quan sát và mang đến sự hướng dẫn về mặt tâm linh với ông, đôi khi khắc nghiệt. Khi Beatrice qua đời vào năm 1290, Dante tìm nơi trú ẩn trong văn học Latin. Tác phẩm Convivio ghi chép lại cảm nhận của ông khi đọc De consolatione philosophiae của Boethius và De Amicitia của Cicero. Sau đó, ông dành thời gian cho các nghiên cứu triết học tại các trường phái tôn giáo như trường phái Dominica ở Santa Maria Novella. Ông đã tham gia vào các cuộc tranh luận rằng hai dòng khất thực chính của các tu sĩ (Franciscan và Dominican) được tổ chức công khai hoặc gián tiếp tại Firenze, trước đây giải thích các giáo lý của các nhà huyền môn và Thánh Bonaventura, sau này giải thích về các lý thuyết của Thánh Tommaso d'Aquino.

Ở tuổi 18, Dante gặp gỡ Guido Cavalcanti, Lapo Gianni, Cino da Pistoia và ngay sau đó là Brunetto Latini; họ cùng nhau trở thành những người lãnh đạo phong trào dolce stil novo. Brunetto sau đó được đề cập một cách đặc biệt trong Thần khúc (Hoả ngục, XV, 28) về những gì ông đã dạy Dante: Trong lúc đó tôi vẫn đi và trò chuyện, - Với Ngài Brunetto và hỏi: - Những ai nơi đây là bạn đường quan trọng nhất của ông. Khoảng 50 bài bình luận thơ của Dante được biết đến (được gọi là Rime, vần điệu), những bài khác được đưa vào Cuộc đời mớiConvivio sau này. Các nghiên cứu khác được báo cáo, hoặc suy luận từ Cuộc đời mới hoặc Thần khúc, về hội hoạ và âm nhạc.

thumb|Minh hoạ phần Luyện ngục (Purgatorio) bởi Paul Gustave Louis Christophe Doré

thumb|Minh hoạ phần Thiên đàng (Paradiso) (của Thần khúc) bởi Paul Gustave Louis Christophe Doré

thumb|Minh hoạ phần Thiên đàng (Paradiso) (của Thần khúc) bởi Paul Gustave Louis Christophe Doré

Firenze và chính trị

Dante, giống như hầu hết người Firenze thời đó, bị lôi kéo vào cuộc xung đột Guelfo—Ghibellini. Ông đã chiến đấu trong trận Campaldino (ngày 11 tháng 6 năm 1289), với phe Guelfo người Firenze chống lại phe Ghibellini người Arezzo; sau đó vào năm 1294, ông là một trong những hộ tống của Charles Martel xứ Anjou (cháu trai của Charles I của Anjou) trong khi ông này ở Firenze. Để tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình, ông trở thành một dược sĩ. Ông không có ý định hành nghề chuyên nghiệp, nhưng một luật được ban hành vào năm 1295 yêu cầu các quý tộc muốn tham gia vào ban bộ của nhà nước cần được ghi danh vào một trong những Corporazioni delle Arti e dei Mestieri, do đó Dante được nhận vào Phường hội Nhà bào chế thuốc. Nghề này không phù hợp vì lúc đó sách vở được bán từ cửa hàng của các nhà bào chế. Là một chính trị gia, ông chỉ thực hiện được ít quyết định nhưng giữ chức tại nhiều bộ khác nhau trong một vài năm trong một thành phố đầy bất ổn về chính trị. thumb|Dante Alighieri, chi tiết trong tranh fresco của [[Luca Signorelli, Nhà nguyện San Brizio, Nhà thờ Chính toà Orvieto]]

Sau khi đánh bại phe Ghibellini, phe Guelfo chia rẽ thành hai phe phái chính trị: phe Guelfo Trắng (Guelfi Bianchi)—phe phái của Dante, dẫn đầu bởi Vieri dei Cerchi—và phe Guelfo Đen (Guelfi Neri), dẫn dắt bởi Corso Donati. Mặc dù sự chia rẽ ban đầu dọc theo dòng họ, sự khác biệt về tư tưởng nảy sinh dựa trên quan điểm đối lập về vai trò của Giáo hoàng trong các vấn đề của Firenze, với phe Đen ủng hộ Giáo hoàng và phe Trắng muốn nhận được sự tự do nhiều hơn khỏi Roma. Phe Trắng giành được quyền lực đầu tiên và trục xuất phe Đen. Đáp lại, Giáo hoàng Bonifacius VIII lên kế hoạch cho quân đội chiếm đóng Firenze. Năm 1301, Charles của Valois, em trai của vua Philippe IV của Pháp, dự kiến ​​sẽ viếng thăm Firenze vì Giáo hoàng đã bổ nhiệm ông làm người hòa giải cho Toscana. Nhưng chính quyền thành phố đã đối xử với các đại sứ của Giáo hoàng một cách tồi tệ một vài tuần trước đó, tìm kiếm sự độc lập khỏi ảnh hưởng của Giáo hoàng. Người ta tin rằng Charles đã nhận được những chỉ dẫn không chính thức khác, vì vậy hội đồng đã gửi một phái đoàn đến Roma để xác định ý định của Giáo hoàng. Dante là một trong những đại biểu này.

Lưu vong và qua đời

Giáo hoàng Bonifacius nhanh chóng giải tán các đại biểu khác và yêu cầu Dante ở lại Roma. Cùng thời điểm đó (ngày 1 tháng 11 năm 1301), Charles của Valois tiến vào Firenze cùng với phe Guelfo Đen, trong sáu ngày tiếp theo đã phá hủy nhiều thành phố và giết chết nhiều kẻ thù. Một chính phủ Guelfo Đen mới được thiết lập, và Cante dei Gabrielli da Gubbio được bổ nhiệm làm thống đốc podestà của thành phố. Vào tháng 3 năm 1302, Dante, một người theo phe Guelfo Trắng thông qua việc sáp nhập, cùng với gia tộc Gherardini, đã bị kết án lưu vong trong hai năm và ra lệnh phải đóng một khoản tiền phạt lớn. Dante đã bị cáo buộc tham nhũng và có hành vi sai trái về mặt tài chính bởi chính quyền Guelfo Đen trong khoảng thời gian mà Dante từng là trưởng tu viện thành phố trước đó (vị trí cao nhất của Firenze) trong hai tháng vào năm 1300. Nhà thơ vẫn ở lại Roma vào năm 1302, khi Giáo hoàng, hậu thuẫn cho phe Guelfo Đen, "gợi ý" rằng Dante nên ở lại. Firenze, dưới sự cầm quyền của phe Guelfo Đen, do đó coi Dante là kẻ trốn tránh pháp luật. Dante đã không trả khoản tiền phạt, một phần vì ông tin rằng ông không có tội và một phần vì tất cả tài sản của ông ở Firenze đã bị tịch thu bởi phe Guelfo Đen. Ông bị kết án lưu vong vĩnh viễn; nếu ông quay lại Firenze mà không trả khoản tiền phạt, ông có thể bị thiêu sống. (Tháng 6 năm 2008, gần bảy thế kỷ sau khi ông qua đời, hội đồng thành phố Firenze đã thông qua một động thái huỷ bỏ bản án của Dante.)

thumb|Một [[mặt nạ người chết được tái tạo của Dante Alighieri ở Palazzo Vecchio, Firenze]]

Ông đã tham gia vào một số nỗ lực của phe Guelfo Trắng để giành lại quyền lực, nhưng đều thất bại do có sự phản bội. Dante, cảm thấy cay đắng trước sự đối xử mà ông nhận được từ những kẻ thù của mình, cũng trở nên cảm thấy ghê tởm với việc đấu đá lẫn nhau trong nội bộ và sự không hiệu quả của các đồng minh xưa kia, và thề sẽ chỉ theo phe phái của riêng mình. Ông đến Verona với tư cách là khách mời của Bartolomeo I della Scala, sau đó chuyển đến Sarzana ở Liguria. Sau đó ông được cho là đã sống ở Lucca với một người phụ nữ tên là Gentucca, người khiến ông yên lòng (và sau đó được nhắc tới với lòng biết ơn trong Luyện ngục, XXIV, 37). Một số nguồn tin phỏng đoán cho rằng ông đã viếng thăm Paris vào khoảng giữa năm 1308 đến năm 1310, và các nguồn khác thậm chí còn kém tin cậy hơn cho rằng ông đã đến Oxford: những tuyên bố này, lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách của Boccaccio về Dante vài thập kỷ sau khi ông qua đời, dường như được truyền cảm hứng từ những độc giả cảm kích trước quá trình nghiên cứu sâu rộng và sự thông thái của nhà thơ. Rõ ràng, sự tinh thông triết học của Dante và niềm hứng thu với văn học của ông càng ngày càng sâu sắc hơn trong quá trình lưu vong và khi ông không còn bận rộn với công việc hàng ngày của một chính khách Firenze, và điều này được minh chứng trong các tác phẩm văn xuôi của ông trong giai đoạn này, nhưng không có bằng chứng xác thực nào nói rằng ông đã từng rời nước Ý. Tác phẩm Immensa Dei dilectione testante của Dante gửi đến vua Henry VII của Luxembourg xác nhận nơi cư trú của mình "bên dưới suối Arno, gần Tuscany" vào tháng 3 năm 1311.

Năm 1310, Hoàng đế La Mã Thần thánh Henry VII của Luxembourg hành quân vào Ý mang theo 5.000 quân. Dante nhìn nhận ông ta như một Charlemagne mới, người sẽ khôi phục lại lễ nghi của Hoàng đế La Mã Thần thánh cho vinh quang trước đây của nó và cũng chiếm lại Firenze từ phe Guelfo Đen. Ông đã viết thư gửi vua Henry và một số hoàng tử của Ý, yêu cầu họ tiêu diệt phe Guelfo Đen. Hoà trộn giữa tôn giáo và những mối quan tâm riêng tư trong các tác phẩm của mình, ông đã tạo nên sự giận dữ tồi tệ nhất của Thiên Chúa chống lại thành phố của mình và đề xuất một số mục tiêu cụ thể cũng là kẻ thù cá nhân của mình. Chính trong thời gian này, ông đã viết De Monarchia (Về nền quân chủ), đề xuất một chế độ quân chủ thế giới dưới thời Henry VII.

thumb|[[Tượng đài Dante Alighieri|Tượng đài Dante ở Piazza Santa Croce tại Firenze, Enrico Pazzi, 1865]]

Tại một thời điểm nào đó trong thời gian lưu vong, ông đã hình dung ra chủ đề của Thần khúc, nhưng ngày thàng này không chắc chắn. Tác phẩm này mang sự tự tin lớn hơn nhiều và có quy mô lớn hơn bất cứ thứ gì ông từng sáng tác ở Firenze; có khả năng ông thực hiện một tác phẩm như vậy chỉ sau khi nhận ra tham vọng chính trị của mình, điều đã trở thành trung tâm trong ông đối với sự trục xuất của mình, đã bị tạm ngưng một thời gian, có thể là mãi mãi. Một điều cũng đáng chú ý rằng Beatrice đã trở lại với trí tưởng tượng của ông với ảnh hưởng được khôi phục và có ý nghĩa rộng hơn so với Cuộc đời mới; trong Convivio (viết ), ông đã tuyên bố rằng ký ức về sự lãng mạn trẻ trung này đã thuộc về quá khứ.

Một dấu hiệu sớm ở bên ngoài cho thấy tập thơ đang được tiến hành sáng tác là một thông báo của Francesco da Barberino, được đưa vào tập Documenti d'Amore (Những bài học về tình yêu) của mình, được viết vào năm 1314 hoặc đầu năm 1315. Phát biểu của Virgil được Francesco ghi chú bằng những từ ngữ đánh giá cao, rằng Dante đã tiếp nối văn chương kinh điển La Mã trong một tập thơ gọi là "Thần khúc" và rằng sự thiết lập của tập thơ này (hoặc một phần của nó) là thế giới ngầm; ở đây có nghĩa là địa ngục. Các lưu ý ngắn gọn không cho thấy dấu hiệu không thể ngăn cản rằng bản thân ông này đã nhìn thấy hoặc đọc, ngay cả với phần Hoả ngục không thôi, hoặc phần này đã được xuất bản vào thời điểm đó, nhưng nó cho thấy việc sáng tác đã được tiến hành và việc phác thảo tập thơ có thể đã bắt đầu một vài năm trước đó. (Một gợi ý ở đây rằng một hiểu biết về tác phẩm của Dante cũng nhấn mạnh một số sự khai sáng trong tác phẩm Officiolum [] trước đó của Francesco da Barberino, một bản thảo chỉ được khám phá vào năm 2003.) Chúng ta biết rằng Hoả ngục đã được xuất bản vào năm 1317; điều này được thiết lập bởi các dòng trích dẫn xen kẽ trong lề của các hồ sơ hiện đại từ Bologna, nhưng không chắc chắn liệu ba phần của bài thơ có được xuất bản đầy đủ, hoặc chỉ một vài bản canto, tại một thời điểm hay không. Phần Thiên đàng dường như đã được xuất bản sau khi ông qua đời.

Tại Firenze, Baldo d'Aguglione tha thứ cho hầu hết những người Guelfo trắng lưu vong và cho phép họ trở về. Tuy nhiên, Dante đã đi quá xa trong các lá thư bạo lực của mình gửi cho Arrigo (Henry VII) và bản án của ông không bị thu hồi.

Năm 1312, Henry tấn công Firenze và đánh bại phe Guelfo Đen, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Dante đã tham gia. Một số người nói rằng ông từ chối tham gia vào cuộc tấn công vào thành phố của mình bởi một người nước ngoài; những người khác cho rằng ông đã trở nên không còn được ưa chuộng với phe Guelph Trắng, và rằng bất kỳ dấu vết nào trong con đường công danh của ông đã được loại bỏ cẩn thận. Henry VII qua đời (vì bị sốt) vào năm 1313, và không còn bất kỳ hy vọng nào để Dante có thể gặp lại Firenze. Ông trở về Verona, nơi mà Cangrande I della Scala cho phép ông sống trong một số sự bảo về nhất định và, có lẽ, ở mức độ công bằng của sự thịnh vượng. Cangrande được đưa vào phần Thiên đàng (Paradiso, XVII, 76).

Trong thời gian lưu vong, Dante đã trao đổi thư từ với nhà thần học người Dominica Fr. Nicholas Brunacci OP [1240–1322], là một môn đồ của Tommaso d'Aquino tại studium ở Santa Sabina ở Rome, và sau đó tại Paris và của Albertus Cả tại studium Cologne. Brunacci đã trở thành giáo sư đọc bài sinh ngữ (lector) tại studium ở Santa Sabina, tiền thân của Đại học Giáo hoàng Thánh Tommaso d'Aquino, và sau đó phục vụ trong Giáo triều.

Năm 1315, Firenze bị ép buộc bởi Uguccione della Faggiuola (viên chức quân sự kiểm soát thị trấn) ban ân xá cho những người lưu vong, kể cả Dante. Nhưng vì điều này, Firenze đòi hỏi sự hối hận công khai của công chúng ngoài một khoản tiền phạt nặng nề. Dante từ chối, nói rằng thích cuộc sống lưu vong hơn. Khi Uguccione đánh bại Firenze, án tử hình của Dante đã được giảm xuống còn quản thúc tại gia, với điều kiện là ông phải tới Firenze để thề sẽ không bao giờ vào thị trấn nữa. Ông từ chối tới đó, và bản án tử hình của ông đã được xác nhận và mở rộng sang cả các con trai của ông. Ông vẫn hy vọng vào cuối cuộc đời rằng ông có thể được mời trở lại Firenze với những điều kiện đáng kính. Đối với Dante, lưu vong gần như là một hình thức của cái chết, tước đoạt nhiều danh tính và di sản của ông. Ông giải quyết nỗi đau khổ lưu vong trong Thiên đàng, XVII (55–60), nơi Cacciaguida, ông cố của ông, cảnh báo ông những gì mong đợi:

thumb|left|Tranh tường của Dante trong [[Uffizi|Bảo tàng Uffizi, bởi Andrea del Castagno, ]]

Với hy vọng trở về Firenze, ông mô tả nó như thể ông đã chấp nhận sự bất khả thi của nó (trong Thiên đàng, XXV, 1–9):

Alighieri chấp nhận lời mời của Hoàng tử Guido Novello da Polenta tới Ravenna vào năm 1318. Ông hoàn thành phần Thiên đàng, và mất năm 1321 (thọ 56 tuổi) khi trở về Ravenna từ một phái bộ ngoại giao đến Venezia, có thể là bệnh sốt rét nhiễm phải ở đó. Ông được chôn cất tại Ravenna tại Nhà thờ San Pier Maggiore (sau này gọi là San Francesco). Bernardo Bembo, praetor của Venezia, dựng lên một ngôi mộ cho ông vào năm 1483. thumb|Bia kỉ niệm trong [[Basilica di Santa Croce di Firenze|Vương cung thánh đường Santa Croce, Firenze]]

Trên mộ, một số câu của Bernardo Canaccio, một người bạn của Dante, dành riêng cho Firenze:

Di sản

Ghi chép tiểu sử chính thức đầu tiên về Dante là Vita di Dante (còn được gọi là Trattatello in laude di Dante), được viết sau năm 1348 bởi Giovanni Boccaccio; Mặc dù một số phát biểu và chương hồi của nó được coi là không đáng tin cậy trên cơ sở nghiên cứu hiện đại, một bản tường thuật trước đó về cuộc đời và tác phẩm của Dante đã được đưa vào cuốn Nuova Cronica của nhà biên niên sử người Firenze Giovanni Villani.

Thành phố Firenze cuối cùng đã bày tỏ sự hối tiếc cho cuộc đời lưu vong của Dante, và thành phố đã đưa ra những yêu cầu lặp đi lặp lại nhằm mang trở lại của di hài của ông. Người giám hộ thi thể ở Ravenna đã từ chối, ở một mức độ nào đó thậm chí còn giấu xương trong một bức tường giả của tu viện. Tuy nhiên, một ngôi mộ được xây dựng cho ông ở Firenze vào năm 1829, trong Vương cung thánh đường Santa Croce. Ngôi mộ đó đã được để trống kể từ đó, với di hài của Dante còn nằm lại ở Ravenna, cách rất xa vùng đất mà ông yêu quý. Mặt trước của ngôi mộ của ông ở Firenze ghi dòng Onorate l'altissimo poeta—dịch thô có nghĩa là "Vinh danh nhà thơ cao quý nhất". Cụm từ này là một trích dẫn từ canto thứ tư của Hoả ngục, mô tả sự chào đón của Virgil khi ông trở về cùng các nhà thơ cổ đại tuyệt vời trong đời sống hoang sơ. Dòng tiếp theo, L'ombra sua torna, ch'era dipartita ("tinh thần của ông, thứ đã rời bỏ chúng ta, trở về"), vắng mặt với ẩn ý sâu sắc từ ngôi mộ trống.

Tàu chiến dreadnought đầu tiên của Ý được hoàn thành vào năm 1913 và đặt tên là Dante Alighieri để vinh danh ông.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1921, để kỷ niệm 600 năm ngày mất của Dante, Giáo hoàng Benedict XV đã ban hành một thông điệp là In praeclara summorum, gọi ông là "một trong những thiên tài nổi tiếng mà đức tin Công giáo có thể tự hào" và là "niềm tự hào và vinh quang của nhân loại ".

Năm 2007, một quá trình tái thiết khuôn mặt của Dante đã được thực hiện trong một dự án hợp tác. Các nghệ sĩ từ Đại học Pisa và các kỹ sư tại Đại học Bologna ở Forlì đã xây dựng mô hình, miêu tả các đặc trưng của Dante hơi khác so với những gì người ta từng nghĩ.

Vào năm 2008, chính quyền thành phố Firenze chính thức tổ chức xin lỗi công khai vì việc trục xuất Dante diễn ra 700 năm trước.

Một lễ kỷ niệm được tổ chức vào năm 2015 để kỷ niệm lần thứ 750 ngày sinh của ông.

Tác phẩm

thumb|Thần khúc (1472) thumb|De vulgari eloquentia, 1577 Dante là tác giả của các tập Rime (Thơ), Il convivio (Bữa tiệc), De vulgari eloquentia (Về hùng biện đại chúng), De monarchia (Về chế độ quân chủ)... Tuy vậy, những tác phẩm này chỉ một số ít các nhà nghiên cứu quan tâm, còn độc giả khắp thế giới hầu như chỉ biết hai kiệt tác: La Vita Nuova (Cuộc đời mới) và La Divina Commedia (Thần khúc).

Tác phẩm La Vita nuova (Cuộc đời mới) bao gồm thơ và văn xuôi, viết về tình yêu của Dante đối với Beatrice Portinari. Tình yêu của Dante với Beatrice mang một quy mô vũ trụ. Nhà thơ nhìn thấy ở người con gái trần tục này một ý tưởng thánh thần được thể hiện trong những con số: "Số 3 là nguồn gốc của số 9, ba lần ba là chín. Như vậy, nếu 3 có thể sinh ra 9 thì điều kì diệu ở trong mình – Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Linh – ba trong một. Từ đó rút ra kết luận rằng: người con gái này là con số 9, nghĩa là điều kì diệu và nguồn gốc của điều kì diệu này là "Tam vị nhất thể". Những lập luận này thể hiện tinh thần của thời đại bấy giờ nhưng phải nói rằng nhà thơ đã dũng cảm khi đem người yêu của mình so sánh với Ba Ngôi thần thánh.

nhỏ|trái|Dante, đứng giữa ngọn núi luyện ngục và thành phố Firenze, giơ ra đoạn [[incipit Nel mezzo del cammin di nostra vita ("Con đường đời tôi đã đi đến nửa") trong một chi tiết của bức họa của Domenico di Michelino, Firenze, 1465.]] Dante gặp Beatrice lần đầu khi nàng lên 9 tuổi. "Linh hồn của cuộc sống" này đã bao trùm lấy tâm hồn của cậu bé Dante. Beatrice chỉ khẽ nghiêng mái đầu cúi chào mà đã làm cho chàng trai Dante lâng lâng khôn tả. Chàng vội vàng đi về phòng riêng viết bài thơ đầu tiên. Chín năm sau hai người gặp lại nhau. Hễ nhìn thấy Beatrice là Dante lại luống cuống, xúc động, không thể làm chủ được bản thân và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ tìm gặp Beatrice nữa. Những chi tiết này được Dante mô tả rất tỉ mỉ trong La Vita Nuova. Sau đó Beatrice đi lấy chồng nhưng tình yêu của Dante đối với nàng vẫn không hề suy giảm. Ngược lại, tình yêu này là nguồn cảm hứng cho Dante viết ra hai kiệt tác La Vita NuovaLa Divina Commedia. Beatrice mất năm 1290. Dante khóc suốt một năm ròng và những người đương thời kể rằng họ không bao giờ còn nhìn thấy Dante cười nữa. Dante và Beatrice Portinari trở thành một biểu tượng của tình yêu đôi lứa trong văn chương thế giới như Petrarca và Laura de Noves, Tristan và Isolt, Romeo và Juliet.

thumb|right|Dante Alighieri, thuộc về [[Giotto di Bondone|Giotto, trong nhà nguyện cung điện Bargello ở Firenze. Bức tranh lâu đời nhất về Dante này đã được vẽ ngay trước khi ông lưu vong và đã được phục hồi rất nhiều kể từ đó.]] La Divina Commedia (Thần khúc) là một tác phẩm bằng thơ đồ sộ gồm ba phần: Địa ngục, Tĩnh thổ, Thiên đường. Mỗi phần có 33 khúc, cộng 1 khúc mở đầu, tất cả là 100 khúc với 14.233 câu thơ. Người ta vẫn thường gọi La Divina Commedia là "Kinh Thánh của thời Trung cổ". Trong tác phẩm vĩ đại này, Dante đặt ra cho mình một mục đích vĩ đại: giúp loài người thoát khỏi nỗi sợ hãi trước cái chết. Nhiệm vụ này ở thời bấy giờ là vô cùng quan trọng: trong linh hồn con người có một nỗi sợ về những cực hình ở Địa ngục mà người ta vẫn nghe qua những lời rao giảng và thuyết giáo. Khác với những nhà triết học theo trường phái Epicurus, Dante không khuyên người đời quên đi cái chết, hay như những nhà triết học thế kỉ Ánh sáng, khẳng định rằng Địa ngục là do các cha đạo nghĩ ra, Dante tin rằng Địa ngục là có thật và chỉ có sự Can đảm, Danh dự và Tình yêu có thể giúp con người thoát khỏi Địa ngục. Thần khúc mở đầu bằng những lời cay đắng về cái chết của Beatrice nhưng tác giả bỗng nhiên hiểu ra rằng nàng là con người cao thượng, trong trắng và không thể chết. Thế là linh hồn của Beatrice, với sự giúp đỡ của Virgil đã dẫn Dante, và cùng với Dante là người đọc, đi hết các tầng ngục, chứng kiến hết những nỗi kinh hoàng của Địa ngục.

left|thumb|Tượng Dante Alighieri ở [[Verona]] Trên cánh cổng vào Địa ngục có dòng chữ "kẻ vào đây hãy quên niềm hy vọng" nhưng Virgil khuyên Dante hãy quên nỗi sợ hãi, vì rằng chỉ với đôi mắt mở to thì con người mới có thể nhìn ra nguồn gốc của mọi cái ác. Cũng theo Dante thì linh hồn con người có thể bị đày xuống Địa ngục ngay cả khi thân xác còn sống nhởn nhơ nơi dương thế, bởi vì Địa ngục không phải là một địa điểm hay nơi chốn mà Địa ngục là một "trạng thái của lòng người". Người nào sống trong lầm lỗi sẽ rơi vào trạng thái đó. Ngay cả lầm lỗi của lòng thù hận – cả người trả thù và nạn nhân của sự trả thù đều bị đày xuống Địa ngục, và một khi nạn nhân còn căm thù kẻ đã hành hạ mình thì vẫn chưa thể thoát ra khỏi Địa ngục.

La Divina Commedia (Thần khúc) lần đầu tiên được dịch ra tiếng Việt năm 1978. Đó là bản trích dịch 30 khúc của cả ba phần ra văn xuôi có vần điệu của Khương Hữu Dụng và Lê Trí Viễn. Gần đây có bản dịch văn xuôi Thần Khúc trọn bộ của Nguyễn Văn Hoàn (2005 và 2009) và bản dịch thơ Thần Khúc trọn bộ của Hồ Thượng Tuy (chưa in thành sách). Tác phẩm La Vita Nuova (Cuộc đời mới) có một bản dịch của Hồ Thượng Tuy.

Trích Địa ngục, trọn khúc XXXIII

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Durante degli Alighieri** (), thường được biết với tên gọi ngắn gọn **Dante Alighieri** hay, đơn giản hơn, **Dante** (; , ; – 1321), là một nhà thơ lớn người Ý vào giai đoạn Hậu
THẦN KHÚC - ẤN BẢN KỶ NIỆM 700 NĂM NGÀY MẤT CỦA THI HÀO DANTE Dante Alighieri 1265 - 1321 là nhà thơ lớn đóng vai trò chủ đạo trong việc kiến tạo nền văn
**2999 Dante** là một tiểu hành tinh vành đai chính, được phát hiện bởi Norman G. Thomas ở 1981. Nó được đặt theo tên Dante Alighieri, nhà thơ Firenze Trung Cổ.
Dante và Beatrice (áo trắng) **Cuộc đời mới** (tiếng Ý: La Vita Nuova) – là một tác phẩm của Dante Alighieri viết trong các năm 1283 – 1293. Đây là một tác phẩm viết về
thumb|_Comencia la Comedia_, 1472 **_Thần khúc_** ( , nghĩa đen: "Vở kịch Thần thánh") là một trường ca của nhà thơ Ý thời Trung cổ Dante Alighieri (1265-1321), là một trong số những nhà thơ
thế="Incipit vita nova", "Dante và Beatrice trong vườn", 1903, bởi Cesare Saccaggi|nhỏ|350x350px|_"Incipit vita nova", "Dante và Beatrice trong vườn"_, 1903, bởi Cesare Saccaggi **Beatrice Portinari** (tên thật là **Bice di Folco Portinari**, 1266 – 1290)
phải|nhỏ|_Cổng Địa ngục_, [[Museo Soumaya, Thành phố Mexico]] **_The Gates of Hell_**, **_Cổng Địa ngục_** () là một nhóm tác phẩm điêu khắc hoành tráng của nghệ sĩ người Pháp Auguste Rodin mô tả một
THẦN KHÚC - ẤN BẢN KỶ NIỆM 700 NĂM NGÀY MẤT CỦA THI HÀO DANTE Đông A trân trọng giới thiệu Thần khúc - ấn bản giới hạn kỷ niệm 700 năm ngày mất của
**Dante's Inferno** (tựa đề game Việt: **Đại chiến địa ngục của Dante**) là một trò chơi hành động - phiêu lưu, kinh dị được phỏng theo tập thơ Thần Khúc của nhà thơ người Ý
**Beatrix** (định danh hành tinh vi hình: **83 Beatrix**) là một tiểu hành tinh hoàn toàn lớn, di chuyển theo quỹ đạo ở phần bên trong của vành đai tiểu hành tinh. Tiểu hành tinh
**Reverend Henry Francis Cary** (6 tháng 12 năm 1772 – 14 tháng 8 năm 1844) là một tác giả và dịch giả người Anh, được biết đến nhiều nhất với bản dịch thơ không vần
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
::link= _"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng)._ **Firenze** ( hay còn phổ biến với tên gọi **Florence** trong tiếng Anh và tiếng
là một sê-ri trò chơi thể loại hành động phiêu lưu, hack and slash được phát triển và phát hành bởi Capcom và được tạo ra bởi Hideki Kamiya. Trò chơi tập trung vào thợ
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Gemma Di Manetto Donati**, thường gọi là **Gemma Donati** ( – sau năm 1333), là vợ của đại thi hào Dante Alighieri. ## Tiểu sử Không có nhiều sử liệu nói về cuộc đời của
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
**Đình Chẩn** (**Giuse Trần Văn Đỉnh**; sinh năm 1983) là một linh mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông được biết đến với vai trò là dịch giả
nhỏ|Vương huy của Costanza II của Sicilia **Costanza II của Sicilia** (tiếng Ý: _Costanza II di Sicilia_; 1249 – 9 tháng 4 năm 1302) là Nữ vương Sicilia từ năm 1282 đến năm 1285 và
**Henry Wadsworth Longfellow** (27 tháng 2 năm 1807 – 24 tháng 3 năm 1882), sinh ra tại Portland, Maine (sau này là một phần của tiểu bang Massachusetts) là một nhà thơ Mỹ, tác giả
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**_Kwon Ji Yong_** () là EP thứ hai của nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Hàn Quốc G-Dragon, được phát hành kỹ thuật số vào ngày 8 tháng 6 năm 2017 bởi YG
**Hồi giáo** hay còn gọi là **đạo Hồi** hay là **đạo Islam** () là một tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, độc thần, dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa (Allah) và Muhammad là sứ
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
nhỏ| _Cuộc lưu đày của [[Napoléon Bonaparte|Napoleon trên đảo Saint Helena_ của (1820) ]] nhỏ| _Đêm đầu tiên bị lưu đày_ - Bức tranh này xuất phát từ một bộ truyện nổi tiếng minh họa
**Tấn trò đời** (tiếng Pháp: _La Comédie humaine_) là tập hợp loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kỳ ảo và tiểu luận được xuất bản từ năm 1829-1850 của đại văn hào Honoré de Balzac. Tấn
nhỏ|411x411px|Thiên đàng **Thiên đàng**, **thiên đường** (chữ Hán: 天堂) hay **Thiên giới** (天界), **Thiên quốc** (天國), **Thượng giới** (上界) là những khái niệm được mô tả trong nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau trên
nhỏ|300x300px| _Tháp Babel_ của [[Pieter Bruegel il Vecchio|Pieter Bruegel the Elder (1563) ]] **Tháp Babel** (, _Migdal Bavel, Burj Babil)_ là một huyền thoại Sách Sáng Thế 11:1–9, nhằm giải thích về sự bất đồng
**Enrique I của Navarra** (, , ; khoảng 1244 - 22 tháng 7 năm 1274), còn gọi là **Enrique Béo mập** () là Vua của Navarra và Bá tước Champagne và Brie (với tư cách
**Montecatini Terme** là một đô thị (_comune_) nằm ở tỉnh Pistoia, Toscana, miền trung nước Ý. Nó là trung tâm quan trọng nhất ở thung lũng sông Nievole (_Valdinievole_). Thị trấn có khoảng 20.000 cư
Trong những luận triết đầu tiên của tâm lý học và siêu hình học, **_conatus_** (; trong tiếng Latin có nghĩa là _nỗ lực_, _cố gắng_, _thúc đẩy_, _thiên hướng_, _quyết tâm_, _phấn đấu_) là
**Tiếng Ý** hay **tiếng Italia** (_italiano_, _lingua italiana_) là một ngôn ngữ thuộc nhóm Rôman của hệ Ấn-Âu và được dùng bởi khoảng 70 triệu người, đa số sinh sống tại Ý. Giọng Ý tiêu
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Robert Langdon** (sinh ngày 22/6/1964 tại Exeter, New Hampshire, Mỹ) là một nhân vật hư cấu. Ông là vị giáo sư của khoa nghiên cứu hình tượng và ký tượng tôn giáo ở Đại học
**Giải thưởng Nữ thân vương xứ Asturias** (tiếng Tây Ban Nha: _Premios Princesa de Asturias_, tiếng Asturias: Premios Princesa d'Asturies), trước đây là **Giải thưởng thân vương xứ Asturias** (tiếng Tây Ban Nha: _Premios Príncipe
**Giosuè Carducci** (27 tháng 7 năm 1835 - 16 tháng 2 năm 1907) là một nhà thơ, nhà văn người Ý đoạt giải Nobel Văn học năm 1906. ## Thời trẻ Ông sinh tại Val
**_Odyssey_** (phát âm tiếng Anh: ; , ) là một trong hai thiên sử thi Hy Lạp cổ đại, cùng với sử thi _Iliad_, được cho là sáng tác bởi Homer. Đây là một trong
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Jorge Francisco Isidoro Luis Borges** (24 tháng 8 năm 1899 - 14 tháng 6 năm 1986) là một nhà văn, nhà thơ và dịch giả nổi tiếng người Argentina. Ông được coi là cha đẻ
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Nhà thơ** hay **Thi nhân** (Chữ hán: 詩人) là người sáng tác thơ — một thể loại văn học khác với văn xuôi hay kịch. Nhà thơ thường bị chi phối bởi nền văn hóa
phải|Sự sụp đổ của Constantinopolis, Trong hình là [[Mehmed II đang dẫn quân tiến vào thành. Tranh của Fausto Zonaro.]] **Hậu kỳ Trung Cổ** hay **Giai đoạn cuối Trung Cổ** (tiếng Anh: _Late Middle Ages_)
**Bốn khúc tứ tấu** (tiếng Anh: **Four Quartets**) – là một trường ca gồm 4 phần: _Burnt Norton (1935), East Coker (1940), The Dry Salvages (1941) và Little Gidding (1942)_ của nhà thơ Mỹ đoạt
**Đất hoang** (tíếng Anh: **The Waste Land**) – là một bài thơ hiện đại của nhà thơ Mỹ đoạt giải Nobel Văn học năm 1948, T. S. Eliot. _Đất hoang_ được coi là "một trong
**Giáo hoàng Bônifaciô VIII** (Tiếng La Tinh: **Bonifacius VIII**) là vị giáo hoàng thứ 193 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh Vatican năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
**Dmitry Dmitryevich Minaev** (tiếng Nga: Дми́трий Дми́триевич Мина́ев, 21 tháng 10 năm 1835 – 10 tháng 7 năm 1889) – nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình, dịch giả Nga. ## Tiểu sử Mộ D.