✨Ctenochaetus striatus
Ctenochaetus striatus là một loài cá biển thuộc chi Ctenochaetus trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1825.
Từ nguyên
Tính từ định danh của loài cá này, striatus, trong tiếng Latinh có nghĩa là "có đường vân, sọc", ám chỉ những đường sọc trên cơ thể, cũng như trên vây lưng và vây hậu môn.
Phạm vi phân bố và môi trường sống
C. striatus có phạm vi phân bố rộng khắp vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Loài cá này được tìm thấy từ Biển Đỏ và vùng biển phía nam bán đảo Ả Rập, dọc theo vùng bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và những quốc đảo, bãi ngầm lân cận, cũng gồm cả Sri Lanka, Maldives, Chagos, quần đảo Cocos (Keeling), đảo Giáng Sinh và vùng biển ngoài khơi Tây Úc; ở Tây Thái Bình Dương, từ biển Andaman, C. striatus có mặt ở khắp vùng biển các nước Đông Nam Á và Papua New Guinea, và trải dài trên khắp vùng biển của nhiều đảo quốc, quần đảo thuộc châu Đại Dương (ngoại trừ quần đảo Hawaii, quần đảo Marquesas và đảo Phục Sinh), giới hạn đến quần đảo Pitcairn và Polynesia thuộc Pháp; phía bắc giới hạn đến quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara (Nhật Bản); phía nam đến rạn san hô Elizabeth, rạn san hô Middleton và đảo Rapa Iti.
C. striatus sống gần các rạn san hô và bãi ngầm trong các đầm phá và vùng biển ngoài khơi ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở C. striatus là 26 cm. Vây lưng và vây hậu môn có viền màu xanh lam ánh kim, sẫm màu hơn thân với các dải sọc màu xanh lam đậm dọc theo chiều dài của vây.
C. striatus đực mùa sinh sản chuyển sang màu trắng ở môi và vùng họng của chúng, và xuất hiện them một đường sọc màu kem nhạt dọc theo rìa trên cuống đuôi, kéo dài đến chóp thùy đuôi trên.
Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 27 - 31; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 24 - 28. Các loài Ctenochaetus đều có chung một đặc điểm là dạ dày có thành dày. C. striatus "chuyển" các trầm tích mà chúng ăn phải ra khỏi rạn san hô bằng cách đào thải qua đường tiêu hóa theo phân ra ngoài. Các nhà nghiên cứu đã phân tích 150 mẫu phân lấy từ 6 cá thể C. striatus và so sánh hàm lượng trầm tích trong phân với lượng trầm tích vô cơ lắng đọng ở vùng biển mà 6 cá thể C. striatus này kiếm ăn. Kích thước trung bình của các hạt cacbon trong dạ dày của C. striatus nhỏ hơn so với kích thước các hạt được lấy từ những khu vực mà chúng kiếm ăn. Người ta nhận thấy, ở vĩ độ càng cao, C. striatus càng sống lâu hơn, và ngoài ra, những quần thể của loài cá này ở Ấn Độ Dương có xu hướng sống không thọ bằng những quần thể ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của C. striatus không có sự khác biệt giữa hai đại dương, và cũng không liên quan đến nhiệt độ nước biển. Ngoài ra, người ta không tìm thấy mối quan hệ nào giữa áp lực đánh bắt cá và tuổi thọ, tốc độ tăng trưởng hay kích thước trưởng thành của C. striatus trên toàn bộ các địa điểm lấy mẫu.