✨Công đồng đại kết

Công đồng đại kết

Giáo hội nghị, hoặc gọi là Công đồng đại kết, gọi tắt Công đồng, là hội nghị giám mục toàn thế giới có ý nghĩa đại biểu phổ biến trong Cơ Đốc giáo truyền thống, bàn luận xét hỏi biểu quyết các vấn đề giáo vụ trọng yếu và tranh chấp giáo lí. Chữ Anh của "đại kết" là ecumenical, bắt nguồn từ chữ Hi Lạp cổ οἰκουμενῐκός, nghĩa là "phổ quát". Bốn hội nghị Cơ Đốc giáo vào thời kì đầu có ảnh hưởng sâu đậm đối với giáo lí của Cơ Đốc giáo là Giáo hội nghị Nicaea I, Giáo hội nghị Constantinople I, Giáo hội nghị Ephesus và Giáo hội nghị Chalcedon, kể từ hội nghị này về sau hình thành Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây.

Năm 1054, phát sinh Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây. Kể từ đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương (Chính giáo Hi Lạp) không công nhận Giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương triệu tập hội nghị, chỉ tin giữ tín điều do Giáo hội nghị lần thứ bảy xác lập. Mặc dù Giáo hội nghị Constantinople IV được cử hành trước khi Đại chia cắt Giáo hội, nhưng không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận. Do đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ công nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Sau cuộc vận động Cải cách Tôn giáo Tin Lành, Giáo hội Anh giáo công nhận bảy giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Nicaea II); Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther chỉ công nhận bốn giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Chalcedon). Lấy Giáo hội nghị Chalcedon - giáo hội nghị lần thứ tư làm ví dụ, đã khiển trách giáo hội ủng hộ thuyết Nhất vị luận (sau này hình thành Giáo hội Chính thống Đông phương), cho nên Giáo hội Chính thống Đông phương chỉ công nhận ba giáo hội nghị trước. Các giáo hội nghị kể từ sau Đại chia cắt Giáo hội do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.

Mặc dù như vậy nhưng một bộ phận tín đồ Giáo hội Chính giáo Đông phương cho biết Giáo hội nghị Constantinople IV (869–870), Giáo hội nghị Constantinople V (1341–1351) và Hội nghị Jerusalem (năm 1672) là giáo hội nghị.

Hội nghị giáo hội chính là đại biểu của giáo hội phổ quát hoặc giáo hội địa phương tụ họp cùng nhau, cùng thương thảo các sự vụ của giáo hội, nhằm đạt đến quyết định nhất trí. Hội nghị giáo hội có rất nhiều loại, ví dụ như hội nghị giám mục, hội nghị thượng phụ hoặc hội nghị địa phương, trong đó hội nghị có vị đại biểu cả giáo hội phổ quát gọi là giáo hội nghị.

Tóm tắt

Giáo hội nghị, hoặc Công đồng đại kết, là hội nghị giám mục toàn thế giới của Cơ Đốc giáo. Chữ "đại kết" bắt nguồn từ chữ Hi Lạp cổ οἰκουμενῐκός (en), nghĩa là "phổ quát".

Năm 1054, phát sinh Đại chia cắt Giáo hội Đông - Tây. Kể từ đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương (Chính giáo Hi Lạp) không công nhận Giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương triệu tập hội nghị, chỉ tin giữ tín điều do Giáo hội nghị lần thứ bảy xác lập. Mặc dù Giáo hội nghị Constantinople IV được cử hành trước khi Đại chia cắt Giáo hội, nhưng không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận. Do đó, Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ công nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Từ Giáo hội nghị Constantinople IV vào thế kỉ IX đến Giáo hội nghị Vatican II vào thế kỉ XX, không được Giáo hội phái Đông phương công nhận, trên thực tế chỉ là đại hội giám mục thế giới cấp cao nhất, quy mô lớn nhất và quan trọng nhất của Công giáo La Mã. Sau cuộc vận động Cải cách Tôn giáo Tin Lành, Giáo hội Anh giáo công nhận bảy giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Nicaea II); Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther chỉ công nhận bốn giáo hội nghị trước (từ Giáo hội nghị Nicaea I đến Giáo hội nghị Chalcedon). Lấy Giáo hội nghị Chalcedon - giáo hội nghị lần thứ tư làm ví dụ, đã khiển trách giáo hội ủng hộ thuyết Một ngôi (sau này hình thành Giáo hội Chính thống Đông phương), cho nên Giáo hội Chính thống Đông phương chỉ công nhận ba giáo hội nghị trước. Hơn nữa, các giáo hội nghị kể từ sau Đại chia cắt Giáo hội đều do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.

Bắt đầu từ thế kỉ II, Giáo hội Cơ Đốc giáo đã hình thành truyền thống triệu tập hội nghị giáo hội để giải quyết các vấn đề như giáo lí, giáo luật, lễ nghi và chế độ. Tuy nhiên, dưới điều kiện Cơ Đốc giáo vẫn chưa có địa vị hợp pháp, sự ảnh hưởng của hội nghị giáo hội chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định, không có ý nghĩa phổ quát. Sau khi Cơ Đốc giáo được hợp pháp hoá, hoàng đế La Mã Constantine I triệu tập khoảng 300 vị giám mục bên trong lãnh thổ đế quốc vào năm 325, đã cử hành Giáo hội nghị lần thứ nhất ở Nicaea (nay là huyện İznik, tỉnh Bursa, Thổ Nhĩ Kì), các nghị quyết của hội nghị bắt đầu đều có sức ràng buộc đối với giáo hội ở các nơi. Có tổng cộng bảy giáo hội nghị do hoàng đế La Mã triệu tập, mệnh danh là Bảy giáo hội nghị lớn, trong khoảng thời gian này giáo hội của hai phái Đông và Tây Cơ Đốc giáo vẫn chưa chính thức chia cắt, cho nên tính hợp pháp của những hội nghị này được Công giáo La Mã và Giáo hội Chính giáo Đông phương sau này công nhận. Đối với tính hợp pháp của Giáo hội nghị lần thứ tám, hai phái bắt đầu nẩy sinh tranh luận bàn cãi, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hai bên chia cắt. Các giáo hội nghị kể từ đó về sau tất cả đều do giáo hoàng triệu tập, các nghị quyết của hội nghị phải qua giáo hoàng phê chuẩn. Giáo lí thuyết Ba ngôi và thuyết Kitô được quy định bởi bốn giáo hội nghị trước trong Bảy giáo hội nghị lớn, được Công giáo La Mã, Giáo hội Chính giáo Đông phương và các tông phái chủ yếu của Tin Lành tiếp nhận, được coi là quy phạm của tín ngưỡng chính thống; hơn nữa, nghị quyết của các hội nghị đã qua sau này, chỉ có hiệu lực đối với các hệ phái công nhận tính hợp pháp của nó. Sự trỗi dậy của quốc gia dân tộc châu Âu vào thế kỉ XIV và Đại chia cắt Giáo hội Tây phương khiến cho quyền uy của giáo hoàng suy giảm, nội bộ Giáo hội Công giáo La Mã từng xuất hiện chủ trương giáo hội nghị phải cao hơn giáo hoàng, đề cao địa vị giám mục giáo phận, nhưng cuối cùng không được Giáo triều La Mã chấp nhận. Công đồng Vatican khoá I vào thế kỉ XIX ban bố "Thuyết bất khả ngộ giáo hoàng" (chỉ giáo hoàng cậy nhờ vào quyền hành tông đồ tối cao của ông, đức tin và giáo lí do đại biểu giáo hội công bố là không thể sai lầm, mà không phải giáo hoàng luôn luôn đúng), hơn nữa đã đề cao địa vị của giáo hoàng. Sau Công đồng Vatican khoá II vào thế kỉ XX, địa vị của giám mục giáo phận đã được đề cao.

Quy định

Căn cứ luật giáo hội hiện hành, công đồng đại kết phải do giáo hoàng triệu tập hội nghị; ông còn nắm giữ các quyền như chủ trì hội nghị (tự thân chủ trì hoặc uỷ quyền đại biểu chủ trì), quyết định các hạng mục thảo luận trong hội nghị, trình tự cần tuân thủ lúc hội nghị tiến hành, địa điểm họp hội nghị, tuyên bố thôi họp hoặc giải tán hội nghị. Quyết định của công đồng đại kết cũng cần phải do giáo hoàng phê chuẩn và công bố. Giám mục hồng y, thượng phụ, tổng giám mục, giám mục trưởng, giám mục và viện trưởng tu viện đều có quyền tham dự và bỏ phiếu, nhưng các nhà thần học và nhà giáo luật học được mời dự họp chỉ có thể bỏ phiếu cố vấn. Giáo trưởng tham dự hội nghị cũng có thể đưa ra nghị trình thảo luận, nhưng đề nghị của họ cần phải do giáo hoàng đồng ý. Đối với giáo hội phổ quát, giáo hội nghị có được quyền tư pháp và quyền tài phán tối cao; nói cách khác, những sự vụ do giáo hội nghị quyết định không thể tái thượng tố lên giáo hoàng hoặc hội nghị. Nếu giáo hoàng không may qua đời trong lúc hội nghị tiến hành, đại hội phải dừng ngay lập tức theo luật, cho đến khi tân giáo hoàng hạ lệnh, tiếp tục hoặc giải tán hội nghị.

Trên đây là quy định về giáo hội nghị của luật giáo hội hiện hành, tuy nhiên, không phải tất cả giáo hội nghị trong giáo hội (có tổng cộng 21 giáo hội được công nhận) đều tuân thủ luật giáo hội này. Đặc biệt là các giáo hội nghị của mấy thế kỉ đầu đều do hoàng đế hoặc hoàng hậu đương thời triệu tập hội nghị, có lúc thậm chí đặc sứ của giáo hoàng cũng không có, chỉ bằng sự truy phong sau này để xác định tính đại kết của nó. Tuy nhiên, bắt đầu từ thế kỉ IX, giáo hoàng dần dần trở thành người triệu tập của công đồng đại kết. Sau thế kỉ XI, việc giáo hoàng triệu tập chính là tiêu chuẩn để đoán định giáo hội nghị khoá đó có hợp pháp hay không.

Danh sách giáo hội nghị

Giáo hội Chính giáo Đông phương ngày nay chỉ thừa nhận bảy giáo hội nghị, nhưng Công giáo La Mã cho là tám. Hơn nữa, sau khi đại chia cắt giáo hội, các giáo hội nghị do Công giáo La Mã đơn phương cử hành, cho nên nội dung không được Giáo hội Chính giáo Đông phương công nhận.

Các giáo hội nghị được giáo hội trong lịch sử như Công giáo La Mã, Giáo hội Chính giáo Đông phương, Giáo hội Anh, Tin Lành tông Calvin, Tin Lành tông Luther,... công nhận như dưới đây:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáo hội nghị**, hoặc gọi là **Công đồng đại kết**, gọi tắt **Công đồng**, là hội nghị giám mục toàn thế giới có ý nghĩa đại biểu phổ biến trong Cơ Đốc giáo truyền thống,
phải|nhỏ|Tranh vẽ [[Constantinus Đại đế (giữa), cùng các Giám mục của Công đồng Nicaea I (năm 325), trên tay họ cầm bảng Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopolis năm 381.]] **Bảy công đồng đại kết đầu tiên**
**Công đồng Nicea thứ nhất** là công đồng gồm những Giám mục Kitô giáo được triệu tập tại Nicea thuộc xứ Bithini (ngày nay là xứ Iznik của Thổ Nhĩ Kỳ) bởi Hoàng đế La
**Công đồng Constantinopolis đầu tiên** được công nhận là Công đồng chung thứ hai của Cảnh giáo, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Chính thống giáo Đông Phương, Công giáo Rôma, Công giáo Cổ, Anh
Nữ hoàng Irene và hoàng đế Konstantinos VI tại Công đồng đại kết thứ bảy **Công đồng Nixêa II** là một công đồng đại kết do Nữ hoàng Irene triệu tập vào năm 787 dưới
**Công đồng Trullo** là công đồng được thừa nhận bởi Chính thống giáo phương Đông được tổ chức ở Constantinople (hay còn gọi là **Công đồng Quinisextine** – Công đồng thứ năm, sáu) được triệu
**Công đồng Êphêsô** là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: "_Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị.
thumb|Công đồng Calcêđônia **Công Đồng Calcêđônia** đã đưa ra một định nghĩa quan trọng có tính cách quyết định cho việc trình bày đức tin về tín điều Nhập thể của Chúa Giêsu. Công đồng
**Công nghị Jerusalem** được triệu tập bởi Thượng phụ Chính thống Hy Lạp Dositheos Notaras vào tháng 3 năm 1672. Thời gian diễn ra công đồng trùng với việc thánh hiến Thánh đường Chúa Giáng
**Công đồng Lateran I** (Lateranus I) diễn ra vào năm 1123 do Giáo hoàng Callixtus II triệu tập. Có khoảng 300 Giám mục và 700 đại biểu khác tham dự các khóa họp từ 8
**Công đồng Constance** diễn ra từ năm 1414 -1418 dưới áp lực của hoàng đế Sigismund và được triệu tập bởi Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII. Chủ nhà là Otto III. von Hachberg, giám
**Công đồng Lateran IV** do Giáo hoàng Innôcentê III triệu tập 10/04/1213 và khai mạc vào 11/11/1215 tại Laterano. Công đồng có 412 đại biểu chính thức (Hồng y, thượng phụ, Tổng giám mục và
**Công đồng Constantinople IV (879-880)** là công đồng chung thứ VIII được thừa nhận bởi Chính thống giáo phương Đông được tổ chức ở Constantinople. Công đồng được triệu tập bởi Hoàng đế La Mã
**Công đồng Constantinopolis III** diễn ra vào năm 680-681. Hoàng đế Constantinus IV triệu tập, dưới triều các Giáo hoàng Agatho và Leoô II. Khoảng 165 Giám mục Đông Phương, 6 Giám mục Tây Phương
**Công đồng Constantinople II** do Hoàng đế Justinianus I triệu tập vào năm 553 dưới triều Giáo hoàng Vigilius. Có khoảng 150 giám mục Đông Phương, 8 giám mục Phi Châu tham dự 8 khóa
**Công đồng Lyon II** do Giáo hoàng Grêgôriô X triệu tập năm 1272-1274. Có khoảng 500 giám mục và 570 giáo sĩ (có Thánh Thomas và Bonaventura), hoàng đế Đông Phương M. Paleologus cũng tham
Công đồng Lateran III do Giáo hoàng Alexanđê III triệu tập năm 1179. Hoàng đế Frederick I cũng có can dự vào công đồng. Có khoảng 300 Giám mục và 400 giáo sĩ tham dự
**Công đồng Lateran II** do giáo hoàng Innôcentê II triệu tập năm 1139. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus. Công đồng Lateran II
**Công đồng constantinople IV** là công đồng thứ 8 của Công giáo nhóm họp năm 870, do Hoàng đế Basilius I triệu tập, dưới triều Giáo hoàng Adrianus II. Có khoảng 120 giám mục Đông
**Công đồng Lateran V** diễn ra từ năm 1512 -1517 do Giáo hoàng Julius II triệu tập. Có 115 giám mục Tây Phương tham dự 12 khoá họp, từ 3 tháng 5 năm 1512 đến
**Công đồng Florence** diễn ra từ năm 1414 -1418. Phiên đầu họp ở Basel, sau đó dời về Ferrara, rồi về Florence. Có khoảng 150 giám mục Tây Phương, 30 giám mục Đông Phương tham
**Công đồng Vienne** do Giáo hoàng Clêmentê V triệu tập năm 1311-1312. Có khoảng 132 Giám mục với nhiều giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ 16 tháng 10 năm 1311 đến 6 tháng
**Công đồng Lyon I** do Giáo hoàng Innôcentê IV triệu tập năm 1245. Có khoảng 150 giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ 28 tháng 6 đến 17 tháng 7
**Công đồng Vaticanô I** diễn ra từ năm 1869 -1870 do Đức Giáo hoàng Piô IX triệu tập. Có 747 giám mục tham dự và nhiều giáo sĩ trong 4 khoá từ 8 tháng 12
Biểu trưng Phong trào Đại kết. **Phong trào Đại kết** đề cập tới những nỗ lực của các Kitô hữu hoặc các truyền thống giáo hội khác nhau nhằm phát triển mối quan hệ gần
**Cộng đồng xã** (tiếng Pháp: _communauté de communes_) là một cộng đồng liên kết các xã lại với nhau tại Pháp. Nó hình thành một khung sườn mà trong đó các chức năng địa phương
**Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai**, gọi tắt là **Công đồng Vatican lần thứ hai** hay **Vatican II**, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công
**Cộng đồng mạng** (viết tắt: **_CĐM_**), hay còn được gọi là **cộng đồng trực tuyến** hoặc **cộng đồng Internet**, là một cộng đồng ảo có các thành viên tương tác với nhau chủ yếu thông
thumb|[[Làng Greenwich, một khu dân cư đồng tính ở Manhattan, nơi có quán bar Stonewall Inn, được trang trí bằng cờ tự hào cầu vồng.]] **Cộng đồng LGBT** (còn được gọi là **cộng đồng LGBTQ+**,
**Cộng đồng các Quốc gia Độc lập** (**SNG** hay **CIS**) là các quốc gia thành viên cũ của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã lần lượt tách ra để trở
**Đại kết về Đức Maria** là các thảo luận về Thánh Mẫu Học giữa Chính thống giáo, Tin Lành, Anh Giáo và giáo hội Công giáo Rôma. Đây là kết quả của ủy ban liên
thumb|Ảnh chụp tập thể tại sự kiện [[Wikimania 2012 diễn ra tại Washington D.C., Hoa Kỳ.]] **Cộng đồng Wikipedia** là cộng đồng những người góp phần xây dựng và bảo quản bách khoa toàn thư
**Cộng đồng Kinh tế châu Âu** (, viết tắt là **EEC**) cũng gọi đơn giản là **Cộng đồng châu Âu**, ngay cả trước khi nó được đổi tên chính thức thành _Cộng đồng châu Âu_
**La Francophonie** (tên chính thức: _Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ_, _Organisation internationale de la Francophonie_) là cộng đồng các quốc gia và vùng lãnh thổ có sử dụng tiếng Pháp hay gọi tắt là
Tại Cộng hòa Pháp, **cộng đồng đô thị** () là một hình thức hòa nhập nhất của một liên xã. Cộng đồng đô thị bao gồm một thành phố (một xã thành thị) và các
**Cộng đồng khoa học** là một mạng lưới đa dạng các nhà khoa học tương tác với nhau. Nó bao gồm nhiều " cộng đồng phụ " làm việc trên các lĩnh vực khoa học
**Cộng đồng tưởng tượng** là một khái niệm do Benedict Anderson phát triển nên trong cuốn sách _Cộng đồng tưởng tượng_ năm 1983 của ông nhằm để phân tích chủ nghĩa dân tộc. Anderson mô
**Chủ nghĩa cộng đồng** (_communitarianism_) là một loạt các học thuyết triết học khác nhau mang tính chất thiên tả hoặc là thuộc cánh chính trị trung hữu mà bắt đầu từ cuối thế kỷ
**Cộng đồng Caribe** (**CARICOM**), là một tổ chức của 15 quốc gia có chủ quyền Caribe và các khu vực phụ thuộc. Mục đích chính của CARICOM là để thúc đẩy hội nhập kinh tế
thumb|Ảnh chụp tập thể của các Furry sau khi diễn hành tại hội nghị Further Confusion 2007|258x258px **Cộng đồng hâm mộ furry** là một nhóm tiểu văn hóa trải rộng toàn cầu, trong đó hướng
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng đồng các quốc gia độc lập** là một đội tuyển quốc gia tạm thời của Liên đoàn bóng đá Liên Xô năm 1992. Họ được chấp thuận là
Thuật ngữ **Cộng đồng Vlaanderen** ( ; ; ) có hai ý nghĩa riêng biệt song có liên quan với nhau: # Về mặt lịch sử và xã hội học, nó ám chỉ các tổ
**Cộng đồng Kinh tế Á Âu** (**_Eurasian Economic Community_** - **EAEC** hoặc **EurAsEC**) là một tổ chức được thành lập từ Liên minh thuế quan Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS) bao gồm
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
right|thumb|Sinh viên Trường Đại học Cộng đồng Monroe, ở [[Rochester, New York, Hoa Kỳ.]] **Trường đại học cộng đồng** hay **trường cao đẳng cộng đồng** (tiếng Anh: _community college_) là một loại hình cơ sở
Các quốc gia theo chế độ **Cộng hòa đại nghị** trên thế giới.
**Màu cam**: đánh dấu các quốc gia có tổng thống không có quyền hành pháp.
**Màu lục**: các quốc gia có tổng thống có
**Kitô giáo Đông phương** bao gồm các truyền thống Kitô giáo ban đầu phát triển ở miền Đông vùng Địa Trung Hải và xa hơn nữa về phía Đông và phía Nam trong thời cổ
nhỏ| Xe biểu diễn chủ đề _Cộng đồng vận mệnh vì nhân loại_. **Cộng đồng chia sẻ tương lai vì nhân loại**, hoặc gọi là **Cộng đồng vận mệnh vì nhân loại**, **Cộng đồng chung
**Gọi vốn cộng đồng** (tiếng Anh: **_crowdfunding_**) là một hình thức gây quỹ tập thể mà theo đó những cá nhân đóng góp tiền của họ, thường là thông qua Internet, để hỗ trợ cho