✨Chu Du
Chu Du (chữ Hán: 周瑜, bính âm: Zhōu Yú; 175–210), tự Công Cẩn (公瑾), đương thời gọi là Chu Lang (周郎), là danh tướng và khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc.
Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở Xích Bích trước đại quân của Tào Tháo. Trận Xích Bích là trận chiến lớn bậc nhất thời đó, là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giúp phân định cục diện Tam Quốc, nên tên tuổi của ông mãi đi vào lịch sử Trung Quốc.
Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhân vật Chu Du được mô tả là vị tướng tài trí, có uy tín trong toàn quân, nhưng có nhược điểm là đố kị, vì thua trí kém tài Gia Cát Lượng nên luôn tìm cách hãm hại nhân vật này Tuy nhiên, do sự nổi tiếng của tác phẩm văn học này, danh tiếng và hình tượng Châu Du trong văn hóa dân gian từ đó bị các tình tiết hư cấu này làm cho xấu đi, và câu nói "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng" vẫn được nhiều người nhắc tới dù không có thật. chú là Chu Thượng (周尚) có thời gian làm Thái thú Đan Dương. Ông nội là Chu Cảnh (周景) và bác là Chu Trung (周忠) đều từng làm quan đến chức Thái úy. Ông cố là Chu Vinh (周榮), thời Chương Đế – Hòa Đế làm đến chức Thượng Thư lệnh.
Chu Du sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang (nay là Thư Thành, An Huy). Sử sách ghi lại rằng ông "cao lớn, cường tráng, đẹp trai", tuổi trẻ đã rất am hiểu âm nhạc. Nếu nhạc đánh sai một nốt, dù đã uống say, Chu Du vẫn biết ngay, bởi vậy thời ấy có câu rằng "Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố" (khúc nhạc lỡ sai, Chu Lang ngoảnh lại).
Kết bạn với Tôn Sách
Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam của Trung Nguyên, nhưng rất gần đất Ngô Việt. Khi Tôn Kiên khởi binh đánh Đổng Trác (năm 190) đã đưa cả nhà đến đó, ở lại huyện Thư. Chu Du gặp con trai Kiên là Tôn Sách, hai người bằng tuổi nhau, trở thành bạn rất thân.
Chu Du nhường gian nhà phía Nam để gia đình Tôn Sách ở trọ, lại lên nhà lạy chào mẹ của Sách, chia sẻ đồ đạc của cải dùng chung. Hai người cùng kết giao với các danh sĩ ở Giang Nam, trở nên nổi tiếng.
Giúp Tôn Sách lập nghiệp
Năm 191, Viên Thuật phái Tôn Kiên đi đánh Lưu Biểu. Kiên chết trong trận Tương Dương. Tôn Sách sau một thời gian cống hiến cho Thuật không được trọng dụng bèn tìm cách ly khai. Chu Du lúc này đang ở Đan Dương với người chú là quan thái thú vùng đó.
Chinh phạt Giang Đông
Năm 194, Tôn Sách 20 tuổi, bắt đầu khởi binh ở Lịch Dương, ôm chí muốn sang sông chinh phục Giang Đông, bèn viết thư cho Chu Du. Du lập tức đem binh lương giúp Tôn Sách. Sách rất mừng, nói: "Có ông giúp, việc lớn của ta ắt xong!". Lúc đó Tôn Sách cho rằng quân lực đã đủ, bảo Chu Du về Đan Dương (gia đình của ông vẫn đang ở đó), còn Sách tiếp tục đi đánh Ngô quận và Cối Kê, bình định vùng Sơn Việt.
Kết giao với Lỗ Túc
Viên Thuật sai em họ là Viên Dận ra làm Thái thú Đan Dương thay Chu Thượng, hai chú cháu cùng về Thọ Xuân. Thuật thấy Du là người có tài, bèn mời làm tướng, nhưng ông nhận thấy Viên Thuật không làm nên việc lớn, nên tìm cách thoái thác, chỉ xin làm quan huyện ở Cư Sào để sau này dễ trở về Giang Đông theo Tôn Sách.
Trong thời gian ở Cư Sào, Chu Du nghe tiếng Lỗ Túc ở Đông Thành giàu có phóng khoáng, hay đem tiền của chia cho người nghèo và thích kết giao danh sĩ, bèn mang trăm người đến chỗ Túc mượn lương thảo. Nhà Lỗ Túc có hai vựa lúa lớn, liền đem một vựa tặng luôn cho Chu Du. Du rất khâm phục, hai người kết bạn với nhau.
Cùng Lỗ Túc sang Giang Đông
Ít lâu sau, Viên Thuật mời Lỗ Túc ra làm quan huyện Đông Thành, nhưng Túc cũng tìm cách từ chối, rồi dẫn cả nhà hàng trăm người đi đến Cư Sào gặp Chu Du. Sang năm 198, cả hai đưa gia quyến cùng rời Cư Sào, vượt sông về Ngô quận. Tôn Sách nghe tin Chu Du về Ngô quận bèn tự mình ra đón và phong ông làm Kiện Uy Trung Lang Tướng (建威中郎將), giao cho 2000 quân và 50 ngựa chiến. Sách lại cấp cho ông một toán quân nhạc, sửa sang nhà cửa, ban tặng cho nhiều thứ khác, rồi nói:
Chu Lang sánh với Tiểu Kiều
Năm ấy Chu Du 24 tuổi, người ở Ngô quận đều khen ngợi ông và gọi là "Chu Lang". Ông được sai trấn thủ Ngưu Chử vốn ở gần Lư Giang, sau đó kiêm chức quan huyện Xuân Cốc.
Năm 199, Tôn Sách muốn đi đánh Hoàng Tổ ở Giang Hạ (thuộc Kinh châu của Lưu Biểu) để báo thù cho cha. Chu Du được phong làm Trung hộ quân, Thái thú Giang Hạ, cùng Sách và Lã Phạm, Trình Phổ kéo quân đi. Trên đường đi thì được tin Viên Thuật chết, lực lượng phân hóa làm hai: Viên Dận đến Hoãn Thành (皖城, còn dịch là Uyển Thành) nương tựa Thái thú Lư Giang là Lưu Huân, còn Dương Hoằng và Trương Huân định đến hàng Tôn Sách nhưng lại bị Lưu Huân chặn đường giết chết. dùng kế lừa Lưu Huân đi đánh Thượng Diên rồi cùng Chu Du mang 2 vạn quân tập kích vào quận Lư Giang, chiếm được Hoãn Thành,
Bình định Dự Chương, trấn giữ Ba Khâu
Lưu Huân mất thành, chạy về phía tây cầu viện Hoàng Tổ. Hoàng Tổ gửi 5.000 thủy quân thiện chiến tới giúp Lưu Huân. Quân Tôn Sách lại đánh bại Lưu Huân, thu được trên 2.000 quân cùng 1.000 chiến thuyền của Huân.
Lưu Huân phải chạy về phía bắc hàng Tào Tháo. Tôn Sách và Chu Du quay sang đánh Hoàng Tổ. Hai bên đánh một trận lớn ở gần Vũ Xương. Dù có viện binh từ Lưu Biểu, nhưng Hoàng Tổ vẫn bại trận. Tuy thắng nhưng Tôn Sách phải quay về bình định nốt Dự Chương. đã hùng cứ một phương, chiếm lĩnh 5 quận Giang Đông là Cối Kê, Ngô quận, Đan Dương, Dự Chương và Lư Lăng. Một hôm, Sách đang cưỡi ngựa ra ngoài thì bị thích khách ám hại, vết thương rất nặng, gọi Trương Chiêu đến dặn dò, trao lại ấn tín cho em là Tôn Quyền rồi chết. Chu Du nghe tin liền mang binh từ Ba Khâu về Ngô quận chịu tang Tôn Sách. Ông được Tôn Quyền giữ lại, phong làm Trung hộ quân (中護軍) nắm giữ binh quyền, cùng Trưởng sử Trương Chiêu giúp Quyền lo việc đại sự. Ông trở thành nhân vật số hai trong chính quyền họ Tôn sau Trương Chiêu.
Tình hình Đông Ngô lúc đó
Tôn Sách tuy đã đặt xong nền móng cho nước Đông Ngô sau này, nhưng cái chết của ông đã khiến tập đoàn họ Tôn có nguy cơ tan vỡ, nguyên nhân như Tôn Thịnh nói là: "nghiệp không có tích đức cơ bản, bang không có cơ sở vững chắc". Họ Tôn tuy gốc gác ở Giang Đông, nhưng không phải danh gia "sĩ tộc"; Tôn Kiên khởi nghiệp ở vùng Hoài-Tứ, được cho là "Giang Tây", lại phục vụ cho "phản thần" Viên Thuật. Vì vậy, Tôn Sách đem quân cũ của cha sang sông chinh phạt Giang Đông, thì người Giang Đông coi họ Tôn là người ngoài vào xâm lược, tuy khống chế được 5 quận nhưng là do dùng vũ lực đoạt được, nhiều nơi còn chưa thần phục. Sách lại trấn áp bằng cách "giết các anh hào" chống đối, khiến nhiều người căm hận.
Trong chính quyền non trẻ của họ Tôn lúc này lại không đồng lòng, chia làm 3 phái chính: Một là "tướng lĩnh Hoài-Tứ", gồm những người đã theo Tôn Kiên, Tôn Sách từ trước, cùng vượt sông sang đánh chiếm Giang Đông như: Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, Tưởng Khâm, Chu Thái... và đứng đầu là Chu Du. Nhóm này trung thành với họ Tôn, và chủ yếu là tướng lĩnh quân sự. Hai là "Bắc sĩ lưu vong", gồm những người đã chạy loạn từ phương Bắc xuống miền Nam lánh nạn, như: Gia Cát Cẩn, Bộ Chất, Nghiêm Tuấn, Trương Hoành, và tiêu biểu là Trương Chiêu. Nhóm này chủ yếu là quan văn, tư tưởng phân tán, mỗi người một ý, lo thân mình trước. *Ba là "tứ đại gia tộc Giang Đông" gồm Ngu, Ngụy, Cố, Lục, gồm những nhân sĩ như: Ngu Phiên, Ngụy Đằng, Cố Ung, và Lục Tốn. Nhóm này căm ghét họ Tôn, tìm cách chống đối.
Tôn Quyền lúc đó còn nhỏ tuổi, nhờ có Trương Chiêu và Chu Du phò tá, một văn một võ, một già một trẻ, như là hai trụ chống trời, mới khiến sự nghiệp họ Tôn đứng vững và tiếp tục phát triễn.
Lúc trước Lỗ Túc đưa cả nhà sang sông cùng Chu Du, nhưng dừng lại ở Khúc A. Không rõ ông có phục vụ cho Tôn Sách hay không (nếu có thì không được trọng dụng), nhưng Chu Du lúc này tiến cử Túc với Tôn Quyền. Hai người sau khi hội đàm thì tâm đầu ý hợp, Lỗ Túc trở thành nhà hoạch định chiến lược được Tôn Quyền yên mến.
Khuyên Tôn Quyền không gửi con tin
Năm 202, Tào Tháo đánh thắng Viên Thiệu, thế lực rất thịnh, hạ chiếu thư yêu cầu Tôn Quyền đưa con vào Hứa Xương làm con tin. Tôn Quyền triệu tập quần thần thương nghị. Trương Chiêu đứng đầu các quan, nhưng lại do dự không quyết. Quyền bèn dẫn riêng Chu Du đến chỗ mẹ mình để bàn định.
Chu Du phân tích rằng Tôn Quyền nay kế thừa cơ nghiệp cha anh, nắm giữ 6 quận, binh hùng tướng mạnh, quân lương đầy đủ, sản vật giàu có, lòng dân quy phục, có sông nước thuận tiện di chuyển, đủ sức chống bất kỳ kẻ địch nào, chẳng có lý do gì phải gửi con tin để rồi bị lệ thuộc vào Tào Tháo. Ngô thái phu nhân nói:
Quyền nghe lời, không đưa con vào triều làm tin.
Năm 208, Tôn Quyền lại ra quân đánh Hoàng Tổ. Chu Du được phong Tiền Bộ Đại Đốc (前部大督), thống lĩnh chư tướng. Chu Du cùng Lã Mông, Lăng Thống, Cam Ninh đốc thúc binh sĩ ra sức tấn công cả hai đường thủy bộ, đại thắng Hoàng Tổ. Tổ bỏ chạy, bị bắt sống và xử tử. Quân Ngô chiếm được Giang Hạ, nhưng Lưu Biểu đưa quân Kinh châu đến cứu, nên phải rút lui. Biểu cho con là Lưu Kỳ trấn thủ Giang Hạ.
Tào Tháo nghe tin Tôn Quyền tiến sang Kinh châu, vội khởi đại quân nam tiến để tranh giành Kinh châu.
Thuyết phục Tôn Quyền kháng Tào
Lưu Biểu chết bệnh, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, thu được hết thủy quân Kinh châu, chiến thuyền, cùng mấy chục vạn quân bộ, khiến người ở Giang Đông đều kinh hãi, lo lắng.
Tháo lấy danh nghĩa của Hán đế yêu cầu Tôn Quyền đầu hàng. Quyền gọi quần thần dưới trướng đến hỏi kế sách. Đa phần đều cho rằng nên hàng, bởi Tháo mang danh Thiên Tử nay lại được thủy quân Kinh Châu, lợi thế của Trường Giang đã không còn.
- Đất Bắc chưa thật sự yên, vùng Tây Lương có Mã Đằng, Hàn Toại là mối lo sau lưng Tháo.
Kết thúc buổi chầu, Chu Du lại vào thưa về thực lực đôi bên để Tôn Quyền khỏi lo lắng:
- Quân Tào nói có tổng cộng 800.000, thật ra chỉ có khoản 150.000 đến 160.000, lại mệt mỏi lắm rồi.
:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra tình tiết nhân vật Gia Cát Lượng sử dụng bài phú Đồng Tước đài để khích nhân vật Chu Du đánh Tào, đây là việc hoàn toàn không có thật bởi ba năm sau đó Tào Tháo mới cho xây Đồng Tước đài, và hai năm sau nữa Tào Thực mới làm bài phú này. Sử gia Dịch Trung Thiên cho rằng vở kịch "Khổng Minh dùng kế khích Chu Du" của La Quán Trung thật sự khôi hài, dựng nên hình tượng Gia Cát Lượng, Chu Du, Lỗ Túc đều "chẳng ra gì": nhân vật Lỗ Túc ngẩn ngơ đần độn, nhân vật Gia Cát Lượng lên mặt ta đây dối trá lung tung mất tư cách, nhân vật Chu Du không lo quốc gia hưng vong mà đánh Tào chỉ vì ghen tuông...
Xích Bích nổi danh
Hợp quân với Lưu Bị
Lưu Bị thua to ở Trường Bản, phải bỏ cả vợ con chạy về Hạ Khẩu. Lúc này Lỗ Túc đến, giới thiệu rằng mình là bạn Gia Cát Cẩn, khuyên Lưu Bị liên minh với Tôn Quyền. Bị cử Gia Cát Lượng làm sứ giả tới Giang Đông. Quyền phong cho Chu Du là Tả Đô Đốc (左督), Trình Phổ làm Hữu Đô Đốc (右督),
Tôn, Lưu lo lắng; Chu Du tự tin
Lúc Chu Du dẫn quân đi, Tôn Quyền vẫn nghi ngờ khả năng chiến thắng. Quyền vỗ vai ông, nói: "Đô đốc hãy tận lực, dốc hết sức, nếu có gì không thuận lợi thì còn có ta đây. Ta sẽ quyết một trận sống mái với Tào Tháo, quyết không hối hận".
Thuyền của Chu Du đi trước ra Phàn Khẩu, đại quân chưa đến, thì Lưu Bị đã tới gặp. Hai người bàn chuyện ở trên thuyền, Bị hỏi quân số Đông Ngô được bao nhiêu. Chu Du thản nhiên trả lời: "Chỉ có hơn 3 vạn". Lưu Bị rất thất vọng và lo lắng vì thấy quân quá ít. Chu Du tự tin nói: "Lưu Dự Châu xem tôi đánh bại Tào A Man nhé!".
Lưu Bị về trại càng nghĩ càng thấy lo sợ, ngầm sai Quan Vũ đi bố trí sẵn ở bờ bắc sông Hán Thủy, đề phòng nhỡ khi thua thì còn có chỗ đấy để chạy về.
Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Lúc này là mùa đông giá rét, gió bắc thổi mạnh, thuyền bè chao đảo, trong quân Tào nhiều người mắc bệnh. Để giải quyết vấn đề này, Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh liên hoàn mã, gọi đó là "Liên hoàn thuyền". :Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã thêm tình tiết hư cấu rằng Bàng Thống bày ra kế "liên hoàn thuyền" để lừa Tào Tháo, giúp Chu Du chiến thắng. Việc này hoàn toàn không được ghi trong bất kỳ sách sử nào.
Bộ tướng của Chu Du là Hoàng Cái hiến kế: "Tôi quan sát thấy chiến thuyền của quân Tháo đầu đuôi liên tiếp nhau, có thể dùng kế hoả công để chúng phải bỏ chạy vậy". Chu Du nghe theo, lập tức cho chọn lấy mấy chục chiến thuyền, che trùm kín mít, chứa đầy cỏ khô, trong tẩm dầu mỡ, ngoài dùng vải che kín, trên cắm cờ xí; ngoài ra Cái còn chuẩn bị nhiều thuyền nhỏ để trốn thoát.
Hoàng Cái gửi thư giả đầu hàng Tào Tháo,
Do bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đuổi, Tào Tháo cho Tào Nhân giữ Nam Quận, rồi rút về phương bắc. Trận Xích Bích đưa tên tuổi Chu Du nổi lên, và được liệt vào hàng những tướng giỏi của lịch sử Trung Quốc.
:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra hàng loạt tình tiết miêu tả mưu kế thần thánh của nhân vật Gia Cát Lượng trong suốt chiến dịch Xích Bích như "thuyền cỏ mượn tên", cùng Chu Du viết chữ "Hỏa" trong lòng bàn tay, lập đàn hô mưa gọi gió đông (tất cả đều không có thật) khiến nhân vật Chu Du ghen tức tài năng. Trên thực tế, theo các sử gia, Gia Cát Lượng không những không có vai trò quân sự gì trong trận Xích Bích, mà còn "đã học tập được nhiều điều bổ ích ở Chu Du và Lỗ Túc".
Lưu Bị, Tào Tháo gièm pha
Trong một bữa tiệc, Tôn Quyền và Lưu Bị nói chuyện về thứ bậc các quan tướng, Bị khen Chu Du:Cái danh của Chu Du vang xa, nên Tào Tháo, Lưu Bị đều sợ mà gièm pha.
Tưởng Cán dụ hàng
Năm 209, Tào Tháo sai người bạn cũ của ông là Tưởng Cán đến thăm và dụ hàng ông. Dù Tưởng Cán đóng vai kẻ sĩ nhàn tản đến gặp với tư cách bạn bè, Chu Du vẫn nhận ra dụng ý của họ Tưởng. Ông hậu đãi Tưởng Cán mấy ngày rồi nói thẳng quan điểm của mình không bao giờ thay lòng đổi dạ thờ họ Tôn. Tưởng Cán biết không thể dụ được ông, đành quay về báo lại cho Tào Tháo. Các danh sĩ Giang Đông vì vậy càng kính phục Chu Du. Hai bên còn chưa giao tranh thì Chu Du đã phái Cam Ninh đi chiếm Di Lăng. Ninh bị quân Tào bao vây, cầu cứu Chu Du. Du nghe lời Lã Mông, để Lăng Thống giữ hậu phương, còn mình đích thân cùng Mông đi giải vây Cam Ninh.
Lưu Bị nói với Chu Du rằng: "Thành Giang Lăng lương thảo rất nhiều, tôi sai Trương Dực Đức dẫn một nghìn người đi theo ngài, ngài chia hai nghìn quân đi theo tôi, tôi theo dòng Hạ Thủy xuống cắt đứt hậu phương của Nhân, Nhân hay tin tôi đến tất bỏ chạy". Du đưa thêm hai nghìn người cho Bị.
Quan Vũ theo lệnh biệt phái của Lưu Bị và Chu Du, mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân, nhưng liên tiếp bị Lý Thông, Nhạc Tiến, Văn Sính đánh đại bại, kho lương và chiến thuyền của Vũ ở Tầm Khẩu bị đốt sạch. Do vậy, đường tiếp tế của quân Tào cho Giang Lăng vẫn thông suốt.
Quân Ngô bao vây thành Giang Lăng hơn một năm, cuối cùng quân Tào tổn thất quá nặng, phải rút về Tương Dương, quân Ngô chiếm được phần lớn Nam Quận. Tôn Quyền bèn phong cho Chu Du làm Thiên tướng quân (偏將軍) kiêm thái thú Nam Quận, được hưởng thực ấp ở các huyện Hạ Tiêu, Hán Xương, Lưu Dương và Châu Lăng, trụ sở đóng tại huyện Giang Lăng thuộc Nam Quận.
:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra việc nhân vật Gia Cát Lượng dùng mưu phỗng tay trên đoạt cả Giang Lăng và Tương Dương, khiến nhân vật Chu Du tức thổ huyết. Tuy nhiên trong các hồi sau, tác giả lại quên mất và cho Tương Dương nằm trong tay Tào Tháo, rồi Quan Vũ lại đến đánh chiếm Tương Dương. (Tất cả đều là hư cấu, trên thực tế Giang Lăng trở thành dinh sở của tân thái thú Nam Quận Chu Du, còn quân Tào chưa bao giờ mất Tương Dương trong suốt thời Tam Quốc).
Hiến kế và sách lược tương lai
Trong lúc quân Ngô khổ chiến với quân Tào thì Lưu Bị cũng tranh thủ giành đất Kinh châu, chiếm được vài quận phía nam. Lưu Bị sau đó còn sang Ngô Quận gặp Tôn Quyền đề nghị cho mượn Nam quận, với danh nghĩa "mượn Kinh châu" để cùng chống Tào Tháo. Chu Du nghe tin bèn viết thư cho Tôn Quyền phản đối việc này. Ông đề nghị hãy giữ Lưu Bị lại, dùng mỹ nhân lung lạc, và ly cách với các mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi, điều hai tướng này đi chinh chiến để lợi dụng tài năng của họ.
Mặc dù Tôn Quyền chưa đồng ý cho Lưu Bị mượn Nam quận, nhưng ông vẫn rất coi trọng liên minh với Lưu Bị để cùng chống Tào Tháo còn rất mạnh ở phía bắc, nên không tiếp nhận kế giam lỏng Lưu Bị của của Chu Du.
:Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra việc nhân vật Gia Cát Lượng tiên đoán trước mọi việc, viết sẵn 3 cẩm nang cho nhân vật Triệu Vân, lợi dụng nhân vật hư cấu là Ngô quốc thái và Kiều Công (lúc đó đã mất từ lâu) để khiến nhân vật Chu Du "đã mất phu nhân lại thiệt quân".
Đánh giá về mưu kế của Chu Du, các học giả Trung Quốc cho rằng: Giam lỏng Lưu Bị thì khả thi và cũng là một độc kế, nhưng lợi dụng Trương Phi và Quan Vũ phục vụ cho mình thì khó mà thực hiện được và Chu Du không hiểu quan hệ gắn bó của 3 người Lưu Quan Trương tới mức nào.
Kế đó không thành, Chu Du lại nghĩ kế khác, đề nghị với Tôn Quyền: :Tào Tháo mới bị đại bại, không thể cử binh đánh ta. Đây là thời cơ tốt để ta mở rộng thế lực. Tôi xin cùng Phấn uy tướng quân Tôn Du đánh vào chiếm đất Thục, được Thục rồi diệt Trương Lỗ. Sau đó lưu Phấn uy tướng quân ở lại cố thủ, liên kết với Mã Siêu cùng chống Tào. Tôi sẽ trở về cùng ngài đánh chiếm Tương Dương, tập kích Tào Tháo, tiến lên phía bắc.
Kế sách này của Chu Du được xem là có tầm nhìn xa trông rộng, được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Bên ngoài là đối địch với Tào Tháo, bên trong là ngầm thanh toán Lưu Bị. Tôn Quyền tán thành mưu kế của Chu Du. Ông quay về Giang Lăng gấp, chuẩn bị cho cuộc chiến. :Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu rằng việc đánh Thục chỉ là "kế mượn đường diệt Quắc" của nhân vật Chu Du để cướp "Kinh Châu", nhưng bị nhân vật Gia Cát Lượng vạch trần. Sau nhiều lần bị chọc tức, nhân vật Chu Du kêu lên "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng" rồi chết. Đây hoàn toàn là màn kịch do La Quán Trung tự tô vẽ nên để tâng bốc Gia Cát Lượng, Biết mình không qua khỏi, Chu Du viết lại thư gửi Tôn Quyền, dặn lại ba việc:
Đề cử Lỗ Túc thay mình cầm quân
Phải đề phòng Tào Tháo ở phía bắc ("Tào công phía bắc, biên cương không yên")
Không thể quên nguy cơ từ Lưu Bị ("Lưu Bị ở nhờ khác nào nuôi hổ").
Rồi Chu Du qua đời, năm đó ông 36 tuổi (năm 210). Tôn Quyền nghe tin khóc than: _"_Công Cẩn có tài phò vương, nay chợt đoản mệnh, cô còn biết nhờ cậy ai!", rồi tự mình mặc áo tang đến để tang ông.Tuy nhiên, Tôn Quyền không phong thụy hầu cho bất kỳ quan tướng Đông Ngô nào, do vậy Chu Du không có tước hầu.
Cái chết của Chu Du khiến Lưu Bị và Gia Cát Lượng bớt được áp lực lớn từ phía Đông Ngô, vì người kế tục ông là Lỗ Túc chủ trương hòa hiếu với Lưu Bị.
Tài năng và nhân cách
Tài năng
Chu Du từ lúc mới 20 tuổi đã cùng Tôn Sách đi chinh chiến khắp Giang Đông, giúp Sách đặt nền móng cho Đông Ngô sau này. Sau khi Tôn Sách chết, ông tiếp tục thống lĩnh quân đội của Tôn Quyền, các trận đánh lớn, nhỏ do ông chỉ huy hầu hết đều đạt được thắng lợi. Việc Chu Du khuyên Tôn Quyền không đưa con và triều làm con tin
Năm 731, Đường Minh Hoàng cho xây Võ miếu đầu tiên gọi là Thái Công Thượng phụ miếu, thờ chủ thần là Khương Thái công cùng 10 danh tướng các thời. Năm 782, Đường Đức Tông đưa thêm vào Võ miếu một số danh tướng như Tôn Tẫn, Liêm Pha, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh... trong đó thời Tam quốc có Chu Du, Đặng Ngải, Quan Vũ, Trương Phi.
Trần Văn Đức, tác giả sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc ngoại truyện) đánh giá Chu Du là một thiên tài quân sự. Những phân tích của Chu Du về thực lực của quân Tào trước trận Xích Bích cho thấy ông có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, lại liên tục ở chiến trường nên thông tin tình báo của ông rất phong phú và chính xác, các quan tướng Đông Ngô khác đều không sánh kịp. Gia Cát Lượng dẫu chú trọng việc tình báo cũng không nắm rõ tình hình quân Tào bằng ông. La Quán Trung khi viết tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa đã miêu tả rằng nhân vật Chu Du ghen tức tài năng của nhân vật Gia Cát Lượng, đây là sự hư cấu mang tính tiểu thuyết của nhà văn, không chính xác về mặt lịch sử. Lúc đó Chu Du thậm chí còn không nghĩ Gia Cát Lượng sẽ là địch thủ hàng đầu của mình, chẳng cớ gì phải tìm cách ám hại.
Ngô Lục của Trương Bột chép: Lưu Bị mượn 2.000 quân của Chu Du, Du liền đưa thêm hai nghìn người cho Bị.
Chu Du là người có chí lớn, phong độ hơn người, nói năng đĩnh đạc. Ông đối đãi với mọi người rất khiêm tốn, lễ phép và thường lấy đức để thu phục mọi người. Thời Tôn Sách, Tôn Quyền còn trẻ và chỉ làm tướng quân, mọi người thường thiếu lễ độ, nhưng Chu Du vẫn rất giữ phép tắc.
Trình Phổ lớn tuổi hơn Chu Du nhưng chức vụ ở dưới, thường tỏ ý không phục, nhiều lần lấn át, khinh thị ông. Chu Du vẫn nhún nhường, nhất định không so bì tranh chấp với Trình Phổ. Sau này dần khiến Trình Phổ phải tự kính trọng, khâm phục ông.
Nhà văn La Quán Trung khi viết tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa (thế kỷ 14) cũng mô tả Chu Du là người lễ độ nho nhã, rất được binh sỹ yêu mến, nhưng nhân vật Chu Du lại hẹp hòi đố kỵ với Gia Cát Lượng, điều này thì trong sử sách hoàn toàn không có ghi lại, chỉ là do nhà văn hư cấu để đề cao nhân vật Gia Cát Lượng.: :Khi 3 người Chu Du, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc gặp nhau trong buổi đêm hôm đó đột nhiên Chu Du và Gia Cát Lượng tỏ ý muốn đầu hàng Tào, chỉ còn lại Lỗ Túc muốn chống Tào. Chu Du bị Gia Cát Lượng khích bác nguy cơ mất người vợ đẹp (Tiểu Kiều) về tay Tào Tháo nếu để thua quân Tào khiến ông nổi giận quyết tâm đánh họ Tào. Điều vô lý được chỉ ra là Chu Du vốn luôn được mô tả là người có ý định chủ chiến (phái diều hâu – đối nghịch với Trương Chiêu) từ đầu sau khi nhận lời ký thác của Tôn Bá Phù; Gia Cát Lượng thì một lòng một dạ sang Giang Đông bằng mọi giá phải kéo được Tôn Quyền ngả theo Lưu Bị để cứu Lưu Bị trong cơn nguy cấp, vì vậy không có lý gì tỏ thái độ vờ vĩnh với Chu và Lỗ. Tác giả Dịch Trung Thiên khi phân tích đoạn này coi đó là một màn kịch khôi hài của La Quán Trung, hình tượng cả ba nhân vật Chu Du, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc đều khác xa thực tế. Hình ảnh Chu Du từ một con người nuôi chí lớn xây dựng cơ nghiệp Giang Đông phù họ Tôn, bắc phạt họ Tào trở thành một người hăng máu đánh trận Xích Bích chỉ vì ghen tuông.
Ngoài ra, trong trận Xích Bích, La Quán Trung còn kể việc nhân vật Chu Du muốn nổi lửa đốt thủy trại quân Tào phải nhờ có nhân vật Gia Cát Lượng cầu gió đông. Sau trận Xích Bích, nhân vật Chu Du trở thành người nhọc công chiến đấu nhưng bị nhân vật Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị nẫng tay trên mất 3 quận Kinh châu, khiến ông uất quá thổ huyết.
Việc Tưởng Cán đến dụ Chu Du ở hồi 45 được La Quán Trung gắn với trận Xích Bích, khi Tào Tháo mang đại quân áp sát biên giới Đông Ngô. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng trong lần gặp Tưởng Cán, Chu Du còn lợi dụng Tưởng Cán đưa tin thất thiệt khiến Tào Tháo nghi ngờ giết hai đô đốc thủy quân giỏi của Kinh châu mới về hàng là Trương Doãn và Sái Mạo, khiến quân Tào không còn tướng chỉ huy quân thủy giỏi. Kỳ thực, Tào Tháo sai Tưởng Cán đi dụ ông sau trận thua lớn ở Xích Bích.
Những tình tiết nhân vật Chu Du ba lần bị nhân vật Gia Cát Lượng chọc tức dẫn tới cái chết của ông đều là hư cấu của La Quán Trung. Ông bị La Quán Trung mô tả là người đố kỵ và luôn tìm cách hại Gia Cát Lượng nhằm trừ đi mối họa cho Đông Ngô. Ngay trước khi nổi lửa ở Xích Bích, nhân vật Chu Du đã có ý định trừ khử nhân vật Gia Cát Lượng nhưng không thành. Trước khi chết, nhân vật Chu Du uất hận than: "Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng?" Trong bộ "Tướng soái cổ đại Trung Quốc" của các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân có ghi: "đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin cậy". Trong sách "Phẩm Tam Quốc" của Dịch Trung Thiên viết: "nhắc tới vị danh tướng Giang Đông, người ta thường nghĩ ngay đến câu chuyện "Ba lần chọc tức Chu Du", là "Đã sinh Du sao còn sinh Lượng" và "Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân" v.v... Tiếc thay, đó là tiểu thuyết, không phải lịch sử, trong sử Gia Cát Lượng chưa từng chọc tức Chu Du. Và dù có chọc tức cũng không thể chết được. Vì sao vậy? Bởi vì Chu Du tính tình mạnh mẽ, hào phóng... Ngược lại, Gia Cát Lượng, một người đức độ cao siêu lại được coi là "Ba lần chọc tức Chu Du", được mô tả thành "kẻ tiểu nhân gian trá hiểm ác" (lời Hồ Thích), nghĩ xem, đau xót biết chừng nào! Chúng ta thấy, lịch sử xa cách chúng ta, có lúc xa cách đến như vậy".
Phim ảnh
Nhân vật Chu Du trên phim ảnh Trung Quốc xuất hiện trong các bộ phim Tam Quốc diễn nghĩa và Đại chiến Xích Bích. Trong phim Tam Quốc diễn nghĩa, vai Chu Du do diễn viên Hồng Vũ Trụ đóng. Nhân vật Chu Du trong phim Đại chiến Xích Bích do diễn viên Lương Triều Vỹ thể hiện.
Thơ ca
Chu Du là nhân vật tài hoa, có cá tính đậm nên thường được các thi nhân đời sau nhắc lại, tên của ông hay gắn với trận đại chiến Xích Bích:
*Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ có 2 câu nổi tiếng: :Đông phong bất dữ Chu Lang tiện :Đồng Tước xuân thâm toả nhị kiều Nghĩa là: :Gió đông không giúp Chu Lang :Thì đài Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
*Tô Thức thời Tống, trong bài từ nổi tiếng điệu _Niệm nô kiều _có nhắc đến Chu Du: :Đại giang đông khứ, :Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật. :Cổ luỹ tây biên, :Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích Nghĩa là: Sông lớn chảy về Đông, cuốn đi hết thảy nhân vật phong lưu ngàn thuở, thành lớn ở phía Tây người bảo đó là Tam Quốc, Chu Du, Xích Bích.
*Tản Đà trong bài hát nói Hỏi gió cũng nói về Chu Lang: :Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích :Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang! : Nghĩa là: :Đây là sông Đà, không phải Xích Bích :Không có Gia Cát với Chu Lang.