✨Châu Hoa Kiện
Châu Hoa Kiện hay Chu Hoa Kiện (chữ Hán giản thể: 周华健, chữ Hán phồn thể: 周華健, , sinh ngày 22 tháng 12 năm 1960) là nam ca sĩ-nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc gốc Hồng Kông và là một trong những ca sĩ Trung Quốc có ảnh hưởng nhất trong những năm 1990 trong khu vực Đại Trung Hoa và Đông Nam Á. Anh cùng với các danh ca Vương Kiệt, Tề Tần và Đồng An Cách được mệnh danh là Tứ Đại Thiên Vương của Đài Loan. Đồng thời, với thành tích doanh số và lượng vé trong concert được bán ra trong những năm 1994-1996, anh được báo chí Hồng Kông mệnh danh là "Thiên Vương Sát Thủ" hay "Ca Vương Quốc Dân", mặc dù Châu Hoa Kiện từng thể hiện trên các phương tiện truyền thông rằng anh không thích danh hiệu đó.
Anh cũng được biết đến với vai trò là huấn luyện viên của chương trình _Sing My Song (Ca Khúc Hay Trung Quốc, 中国好歌曲) mùa 1, mùa 2 cũng như thành viên trong Ban giám khảo của chương trình Thách Thức Điều Không Thể (挑戰不可能)_ mùa 1 do CCTV sản xuất.
Tại Việt Nam, các ca khúc của anh được nhiều khán giả biết đến như Tiếng sáo phiêu bồng, Lãng quên chiều thu (Lam Trường), Kiếp rong buồn, Thiên hạ hữu tình nhân (Đan Trường), Anh không muốn ra đi (Nguyễn Phi Hùng), Bến mộng (Kenny Thái), Cánh chim cuối trời (Lam Trường, Cẩm Ly), Ngày không em (Ưng Hoàng Phúc), vv...
Tiểu sử
Nguyên quán của Châu Hoa Kiện ở Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông. Anh được sinh ra tại Tây Doanh Bàn, Hồng Kông, là con thứ tư nên nhũ danh là Tứ Ngưu (四牛). Trên anh có 3 người anh trai (Hoành Kiện, Vĩ Kiện, Hào Kiện) và một em gái. Gia đình anh kinh doanh một cửa hàng gạo. Anh từng theo học trường tiểu học Lỗ Ban Quảng Duyệt Đường (廣悅堂魯班學校). Năm 1973, anh tiếp tục theo học trường trung học New Method College (新法書院), bạn cùng trường với đạo diễn nổi tiếng Đường Quý Lễ (唐季禮). Năm 1974, trong dịp sinh nhật lần thứ 14 tuổi của mình, Châu Hoa Kiện được anh trai mình là Châu Hào Kiện tặng cho một cây guitar. Anh tỏ ra rất thích thú và thường luyện tập mọi lúc mọi nơi nhưng cũng việc tập luyện quá say sưa đã khiến Châu Hoa Kiện lực học sút kém. Hậu quả là năm 1975, anh ở lại lớp trong năm thứ 3 trung học.
Năm 1978, ở tuổi 18, anh đã cùng một số người bạn thành lập một ban nhạc, tham gia cuộc thi hát nghiệp dư do Đài truyền hình Hồng Kông tổ chức lần đầu tiên dưới tên gọi "Dusty", giành giải quán quân.。
Năm 1979, anh sang Đài Loan du học. Năm 1981, sau 2 năm cố gắng, anh được nhận vào khoa Toán, Đại học Quốc gia Đài Loan, nhưng sau đó lại phát hiện những con số vốn không hấp dẫn với mình. Trong học kỳ, sau khi được đàn anh giới thiệu, anh bắt đầu công việc hát phục vụ tại nhà hàng phương Tây ở quận Sỹ Lâm, thành phố Đài Bắc.
Sự nghiệp
Giai đoạn ra mắt: 1985-1986
Năm 1984, Châu Hoa Kiện và Lâm Lương Nhạc, Tiền Tuy Hâm cho ra mắt một album tổng hợp _Danh Ca Tam Nhân Hành (名歌三人行). Trong album này, anh đã lần đầu tiên phát hành công khai một nhạc phẩm do bản thân sáng tác có tên Ai đã từng nói (誰曾說過)._
Năm 1985, Châu Hoa Kiện đã thu âm album cá nhân đầu tiên Điệu Waltz Cuối (最後圓舞曲), nhưng không may, công ty thu âm phá sản vài ngày trước khi album được phát hành, vì vậy album đã không thể ra mắt. Trong quá trình hoạt động như một ca sĩ phòng trà tại một nhà hàng phương Tây ở Đài Bắc, anh đã gặp Constance. A. Woods, người sau này trở thành vợ của anh.
Năm 1986, dưới sự đánh giá cao và giới thiệu của nhạc sĩ-nhà sản xuất nổi tiếng Lý Tông Thịnh, cuối cùng anh ấy đã gia nhập hãng thu âm Rock Records (滾石唱片)
Sau đó, Châu Hoa Kiện tiếp tục lần thử sức tiếp trong album tổng hợp Thiên đường vui vẻ (快樂天堂) của hãng thu âm Rock Records. Anh cùng với Lý Tông Thịnh, Hoàng Vận Linh và một số nghệ sĩ khác cũng tham gia phát hành album Tôi có lời muốn nói (我有話想説). Bắt đầu từ đây, Châu Hoa Kiện được công ty chủ trương xây dựng hình tượng "Dương Quang Du Tử" (tạm dịch: Lãng tử mặt trời) vì hình ảnh và thể loại tích cực, lành mạnh trong tính cách và tiếng hát của anh.
Thời kỳ "Dương Quang Du Tử": 1987-1990
Vào ngày 13 tháng 7 năm 1987, Châu Hoa Kiện chính thức cho ra mắt album đơn đầu tiên "The Direction of the Heart" thuộc Rolling Stones và được đón nhận rộng rãi, đạt được bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp ca hát của anh. Album được chọn là một trong "Top 100 album Đài Loan"
Năm 1988, album tiếng Trung thứ hai "Tôi Hi Sinh Chân Tình, Tôi Thực Hiện Giấc Mộng" và album tiếng Anh đầu tiên "Sad Without You" được phát hành lần lượt, lập kỷ lục mới về doanh số, và từ đó thiết lập vị trí ca sĩ mạnh mẽ. Năm 1989, anh phát hành album tiếng Quan thoại "Trả nhiều hơn, mong đợi nhiều hơn" và "Giấc mơ thực sự nhất", và đĩa đơn "Legend of Widow Village" đã lọt vào danh sách "Giải thưởng Nam nghệ sĩ xuất sắc nhất" trong Giải thưởng Bài hát vàng đầu tiên của Đài Loan.
Vào ngày 9 tháng 11 năm 1990, album tiếng Quan Thoại "Don't Wanna Be Alone" đã được phát hành và lúc này con trai đầu chào đời. Vào ngày mong chờ sự ra đời của con trai, anh đã viết hai bài hát nổi tiếng "My dearest baby" và "I Willing to Wait". Trong năm đó, bài hát "There Is Love In This City" do anh sáng tác được chọn là bài hát chủ đề của cuộc thi Thế vận hội thường niên Đài Loan và đã thắng giải tại hạng mục ca hát của Golden Melody Award for Song of the Year lần thứ 2.
Thời kỳ "Ca Vương quốc dân":1991-1993
Vào ngày 28 tháng 11 1991, Châu Hoa Kiện phát hành album tiếng Quan Thoại quan trọng của mình "Make Me Happy and Worry Me" và đã bán được hơn 2 triệu bản. Bài hát cùng tên nhanh chóng trở nên phổ biến trên khắp cộng đồng Hoa ngữ, khẳng định vị thế của anh. Với album này anh được đề cử tại hạng mục "Nam nghệ sĩ xuất sắc nhất" tại Giải thưởng Giai điệu vàng lần thứ 3 của Đài Loan, và một lần nữa lọt vào "Top 100 album Đài Loan" sau album "The Direction of the Heart".
Bên cạnh việc tổ chức concert cá nhân "Thanh xuân phi trì" (青春飛馳) tại sân vận động Trung Sơn Cao Hùng, anh cũng lần đầu tiên cũng biểu diễn ở Trung Quốc đại lục.
Năm 1992, anh được truyền cảm hứng từ đĩa đơn "The song of a ferryman" để thành lập phòng thu riêng Stars Ferry Music (擺渡人音樂工作室). Châu Hoa Kiện cũng đã sản xuất và phát hành album tiếng Anh "I remember", và doanh thu đã lập kỷ lục chưa từng có cho album tiếng Anh tại Đài Loan. Cùng năm đó, anh nhận giải giành "Ca sĩ hát tiếng phổ thông hay nhất năm" tại Giải thưởng Giai điệu vàng lần thứ tư của Đài Loan cho album "Make Me Happy and Worry Me". Anh cũng giành được đề cử "Giải thưởng dành cho nhạc sĩ xuất sắc nhất".
Năm 1993, album tiếng Hoa "Hoa tâm" được phát hành và hơn 4 triệu bản đã được bán trên khắp châu Á, nhận danh hiệu vô địch doanh số hàng năm kỷ lục Trung Quốc toàn cầu của IFPI; doanh thu album đánh dấu sự nghiệp diễn xuất cá nhân của Zhou Huajian ở đỉnh cao, đã khẳng định vị thế là "Ca vương quốc dân" trong nền âm nhạc Trung Quốc. Đồng thời, lần đầu tiên, hãng thu âm lần đầu tiên ra mắt bản karaoke cho ca khúc "Hoa tâm" và "Chiếc gối cô đơn" của Châu Hoa Kiện.
Tour lưu diễn vòng quanh khu vực Đại Trung Hoa được tổ chức lần đầu tiên tại Nhà tưởng niệm Tôn Trung Sơn Đài Bắc vào tháng 7. Chuyến lưu diễn cá nhân đầu tiên ở Đại lục có tên "Đêm Nay Dương Quang Xán Lạn" tổ chức tại Bắc Kinh, Thành Đô và nhiều nơi khác kéo dài suốt tháng 7. Concert solo đầu tiên của anh tại Hồng Kông được tổ chức tại sân vận động Queen Elizabeth. Cùng năm, anh được đề cử cho "Giải thưởng Nam nghệ sĩ xuất sắc nhất" tại Giải thưởng Kim Khúc lần thứ 5.
Từ đó, Châu Hoa Kiện cũng bắt đầu phát triển tại thị trường Hồng Kông. Ngoài vai chính trong bộ phim Once a Cop (超級計劃, tựa việt: Câu Chuyện Cảnh Sát: Kế hoạch siêu cấp) của Hồng Kông năm 1993 cùng Dương Tử Quỳnh và Vu Vinh Quang.
Giai đoạn 1999-nay
thế=Châu Hoa Kiện trong buổi biểu diễn cá nhân thuộc phạm vi tour diễn vòng quanh thế giới của anh ở Nhà thi đấu Đài Bắc vào năm 2015|nhỏ|659x659px|Châu Hoa Kiện trong buổi biểu diễn cá nhân thuộc phạm vi tour diễn vòng quanh thế giới của anh ở Nhà thi đấu Đài Bắc vào năm 2015 Từ năm 1999, Châu Hoa Kiện bắt đầu thay đổi phong cách, và các thể loại âm nhạc của anh ngày càng trở nên đa dạng và quốc tế hóa. Ngoài việc phát hành liên tiếp album tiếng Anh "MY OH MY" và album tiếng Trung NOW 現在, anh còn tham gia nhiều buổi biểu diễn khác nhau ở Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc đại lục, Đông Nam Á và Bắc Mỹ, làm người thể hiện phiên bản tiếng Trung của ca khúc chủ đề của Disney bộ phim hoạt hình Tarzan của Disney. A cùng với Tao Jingying đồng tổ chức Lễ trao giải Kim Mã lần thứ 36, thương hiệu MUJI, tham gia làm khách mời buổi hòa nhạc của La Đại Hữu, Hoàng Phẩm Nguyên, Thành Long, v.v,
Trong thời gian này, anh được nhận một số giải thưởng như "Grand Prize: National Honorary Singer" tại lê trao giải thường niên của Danh sách nhạc pop nguyên bản Trung Quốc, "Golden Song of the Year" và Top 10 danh ca của đài phát thanh Metro Broadcast Corporation Hồng Kông, giải thưởng "Bài hát tiếng Quan thoại hay nhất" với ca khúc "Any Song Reminds You Of Me", Nam ca sĩ được yêu thích nhất Đài Loan và Hồng Kông tại lễ trao giải China Golden Disc Award lần thứ 1.
Từ năm 2001, do ảnh hưởng bởi thị trường thu âm chững lại và những thách thức từ lớp nhạc sĩ mới nổi, Châu Hoa Kiện đã gặp phải một giai đoạn nút cổ chai trong sự nghiệp của mình, công việc sáng tác gặp nhiều khó khăn, anh thừa nhận rằng mình thậm chí đã nghĩ đến việc tự tử.
Cuối cùng Châu Hoa Kiện đã từ bỏ việc theo đuổi thể loại nhạc pop một cách mù quáng, quay trở về với sự dịu dàng vốn có. Năm 2003, Châu Hoa Kiện người đang gặp bế tắc trong quá trình sản xuất âm nhạc, đã đưa đội ngũ sản xuất của mình chuyển sang phá kỷ lục đến khách sạn quốc tế Dương Minh Sơn, Bắc Đầu, Đài Bắc để sản xuất album mới "Love Hotel- Happiness Together". Từ 2003 đến 2005, hàng chục buổi biểu diễn đã được tổ chức tại Trung Quốc đại lục, Malaysia và Hoa Kỳ và nhiều nơi khác.
Năm 2006, để kỷ niệm 20 năm bước vào sân khấu âm nhạc, Châu Hoa Kiện đã phát hành album solo thứ 29 "Rainman" trong đời, và tổ chức liên tiếp concert solo quy mô lớn "Hoa Kiện 20" tại Bắc Kinh,Trùng Khánh, Thượng Hải, Nam Kinh, Nam Ninh, Đài Bắc, Hồng Kông, Hàng Châu, Thái Nguyên, Thường Châu, Singapore để kỷ niệm 20 ca hát.
Trước thềm khai mạc Thế vận hội mùa hè 2008 tại Bắc Kinh, anh đã tích cực tham gia các hoạt động chào mừng Olympic khác nhau, ngoài việc được chọn làm thủ lĩnh danh dự của Đội tình nguyện Olympic Bắc Kinh 2008 và tham gia vào cuộc rước đuốc Olympic ở ga Tam Á.
Anh cũng đích thân sáng tác và sáng tác bài hát cổ vũ Olympic Bắc Kinh và bài hát tiếp sức ngọn đuốc Olympic là "Legend of the Torch" và "I am a Star" đã trở thành một trong những bài hát Olympic được hát rộng rãi. Cùng năm đó, anh và La Đại Hựu, Lý Tông Thịnh và Trương Chấn Nhạc thành lập nhóm nhạc "Superband", tạo dựng cảm hứng mới của thị trường âm nhạc Trung Quốc (thế hệ 1970-1990). Kể từ tháng 3 năm 2009, 53 buổi hòa nhạc đã được lưu diễn dọc theo hàng chục thành phố ở Đài Bắc, Hồng Kông, Bắc Kinh, Hoa Kỳ, v.v. với doanh số vé bán ra vô cùng ấn tượng.
Năm 2010, concert cá nhân Hoa ghép hình được tổ chức liên tiếp tại hàng chục thành phố như Bắc Kinh, Vũ Hán, Cáp Nhĩ Tân, v.v.
Từ năm 2010 đến 2011, anh tham gia làm khách mời biểu diễn trong "Concert Happy Paradise Rock Records 30" tại các nhà ga Đài Bắc, Singapore, Bắc Kinh và Thượng Hải. Vào ngày 20 tháng 5 năm 2011, album thứ 30 "Hua Dan" đã được phát hành, nội dung chính là cover các bài hát của các nữ ca sĩ khác.
Năm 2013, anh phát hành album cá nhân mới "Giang Hồ" với chủ đề "anh hùng" và "giang hồ" ra mắt lần đầu tiên tại Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và các khu vực khác vào ngày 6 tháng 12 và chính thức phát hành tại Trung Quốc Đại lục vào ngày 30 tháng 12.
Từ cuối năm 2013, anh là một trong 4 giám khảo của chương trình Sing my song Trung Quốc trên kênh CCTV3 của đài CCTV. Chương trình bắt đầu từ ngày 6 tháng 1 năm 2014.
Năm 2014, album "Giang Hồ" gành được nhiều đề cử trong Giải Âm nhạc Phong Vân Bảng gồm Nam ca sĩ xuất sắc nhất, Album hay nhất, Nhạc trữ tình hay nhất dành cho nhạc phẩm "Vẩy Mực" (viết lời: Trương Đại Xuân), nhà sản xuất bài hát hay nhất ("Vẩy Mực", sáng tác: Châu Hoa Kiện, Hoàng Vận Nhân), MV ca nhạc hay nhất ("Vẩy Mực", đạo diễn: Trần Dịch Nhân), dự án thu âm hay nhất, và giành giải nam ca sĩ xuất sắc nhất.
Danh sách các đĩa hát đã phát hành
Album thu âm và hiện trường (Studio album và Live album)
Đĩa đơn (Single), EP và các nhạc phẩm tham gia cùng người khác
Đĩa tuyển tập (Best Collection)
LD, VCD và DVD/Bluray
Những phim đã tham gia
1987 - Osmanthus Alley (桂花巷) 1987 - The Game They Called Sex (黃色故事) 1993 - Project S còn gọi là. Once a Cop 1994 - Right Here Waiting (等愛的女人) 1995 - Just Married (橫紋刀劈扭紋柴) 1995 - I Want To Go On Living (我要活下去) 1995 - Faithfully Yours (叛逆情緣) 1995 - Rumble in the Bronx (Ice Cream Man) 1996 - Who's the Woman Who's the Man (金枝玉葉2) 1997 - All's Well End's Well 97 1997 - Walk In (奪舍) 1997 - Mr Nice Guy'(Ice Cream Man) 1997 - 知解時空 1998 - Spicy Love Soup (愛情麻辣燙) 1999 - Gorgeous 1999 - Purple Storm (紫雨風暴) 1999 - Tarzan 2001 - Headlines (頭號人物) 2003 - Homerun 2003 - The Pawnshop No. 8