✨Bạc má lớn

Bạc má lớn

Bạc má lớn (danh pháp hai phần: Parus major) là một loài chim trong họ Bạc má. Bạc má lớn là một loài phổ biến ở châu Âu, Trung Đông, Trung Á, phân bố đến tận phía đông khu vực sinh thái Cổ Bắc giới, sông Amur và phân bố tại một phần Bắc Phi. Bạc má lớn hầu như không di trú nếu mùa đông không quá khắc nghiệt. Trước năm 2005, loài này được gộp chung với rất nhiều phân loài khác. Các nghiên cứu DNA cho thấy sự khác biệt giữa một số phân loài của bạc má lớn. Hiện nay các phân loài này đã được tách ra thành hai loài riêng biệt là bạc má lưng xám (Parus cinereus) ở Nam Á và bạc má Nhật Bản (Parus minor) ở Đông Á. Bạc má lớn vẫn là loài phổ biến nhất trong chi Parus.

Bạc má lớn là loài chim có đặc điểm: đầu đen, cổ và má trắng, lưng màu ô liu và thân dưới màu vàng, có một số khác biệt giữa các phân loài. Loài chim này chủ yếu ăn côn trùng vào mùa hè, ăn nhiều loại thức ăn hơn trong những tháng mùa đông, chim ăn cả con dơi nhỏ đang ngủ đông. Giống như các loài bạc má khác, bạc má lớn làm tổ trong hốc cây. Chim mẹ đẻ khoảng 12 quả trứng và ấp trứng một mình. Cả chim bố và chim mẹ đều nuôi chim non. Mỗi năm chim sinh hai lứa. Tổ của chúng có thể bị gõ kiến nhỏ sườn đỏ, sóc xám miền Đông và triết bụng trắng tấn công, và bị bọ chét ký sinh. Chim trưởng thành bị chim cắt hỏa mai săn bắt. Bạc má lớn đã thích nghi tốt với những thay đổi của con người đối với môi trường, và là loài chim phổ biến và quen thuộc trong các công viên và khu vườn đô thị. Bạc má lớn cũng là một loài nghiên cứu quan trọng trong ngành điểu học.

Phân loại

thumb|Bạc má lớn ở Thụy Điển, mùa đông năm 2016. Theo phiên bản thứ 10 của Systema Naturae năm 1758, Carl Linnaeus đặt danh pháp khoa học cho bạc má lớn là Parus major. Tên khoa học của loài có nguồn gốc từ tiếng Latinh: parus (bạc má) và maior (rộng lớn). Francis Willughby đã sử dụng tên này vào thế kỷ 17.

Bạc má lớn trước đây được cho là phân bố từ Anh đến Nhật Bản và phía nam đến các đảo của Indonesia, với 36 phân loài được mô tả thuộc bốn nhóm phân loài chính. Nhóm major có 13 phân loài phân bố trên khắp châu Âu, vùng ôn đới châu Á và Bắc Phi. Nhóm minor với 9 phân loài phân bố từ đông nam Nga và Nhật Bản đến phía bắc của đông nam châu Á. Nhóm cinereus với 11 phân loài được tìm thấy từ Iran qua Nam Á đến Indonesia. Ba phân loài bokharensis thường được coi là một loài riêng biệt, Parus bokharensis. Cách phân loại này từng được cho là tạo thành một loài vành đai quanh Cao nguyên Tây Tạng, với dòng gen chung xuyên suốt các phân loài. Tuy nhiên, lý thuyết này đã bị bác bỏ khi việc kiểm tra các chuỗi DNA ty thể đã phát hiện ra rằng bốn nhóm là đơn ngành, và các vùng lai giữa các nhóm là kết quả của quá trình lai thứ cấp sau khoảng thời gian tạm tách biệt nhau.

thế= Bird with similar markings to great tit, but colours washed out and greyer, drinks from a leaking tap|trái|nhỏ|11 phân loài của [[Parus cinereus đã từng được gộp chung với bạc má lớn. Tuy nhiên, các nghiên cứu về di truyền và âm thanh sinh học gần đây hiện đã tách chúng thành một loài riêng biệt.]] Một nghiên cứu được công bố vào năm 2005 đã xác nhận sự khác biệt giữa nhóm major với nhóm cinereus và nhóm minor, và cùng với phân loài P. m. bokharensis tách khỏi hai nhóm này vào khoảng 1,5 triệu năm trước. Sự khác biệt giữa nhóm bokharensis và các nhóm khác được ước tính là từ khoảng nửa triệu năm trước. Nghiên cứu cũng kiểm tra các giống lai của đại diện các nhóm majorminor ở Thung lũng Amur, nơi có sự giao thoa của hai nhóm. Kết quả cho thấy con lai rất hiếm, tức là có một số rào cản sinh sản giữa hai nhóm. Nghiên cứu khuyến nghị tách hai nhóm phía đông thành loài mới bao gồm: bạc má lưng xám (Parus cinereus) và bạc má Nhật Bản (Parus minor). Riêng bạc má Turkestan thì vẫn gộp chung với bạc má lớn. Cách phân loại này đã được một số cơ quan có thẩm quyền tuân theo, như là Danh sách các loài chim trên thế giới của IOC (IOC World Bird List). Cẩm nang về các loài chim trên thế giới (Handbook of the Birds of the World) thì phân loại các loài thuộc chi Parus theo cách ban đầu: coi bạc má Turkestan là một loài riêng biệt, nhưng vẫn gộp bạc má Nhật Bản và bạc má lưng xám với bạc má lớn,

Phân loài đại diện của bạc má lớn là phân loài phổ biến nhất, với phạm vi trải dài từ bán đảo Iberia đến thung lũng Amur và từ Scandinavia đến Trung Đông. Các phân loài khác phân bố hẹp hơn nhiều, bốn phân loài có phân bố hạn chế ở các đảo và phần còn lại của phân loài P. m. major phân bố ở các vùng biệt cư để tránh kỷ băng hà trước đây. Sự phổ biến của một phân loài duy nhất, đồng nhất về mặt hình thái trên một khu vực rộng lớn như vậy cho thấy rằng phân loài đại diện đã nhanh chóng tái định cư trên một khu vực rộng lớn sau kỷ băng hà cuối cùng. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền cho thấy một thắt cổ chai di truyền gần đây về mặt địa chất, dẫn đến sự gia tăng dân số nhanh chóng.

Phân loài

nhỏ|Tại [[Vườn thực vật hoàng gia Kew, Luân Đôn. Phân loài Anh P. m. newtoni.]] Hiện có 15 phân loài được công nhận: được tìm thấy khắp quần đảo Anh. P. m. major (Linnaeus, 1758), được tìm thấy ở khắp châu Âu, Tiểu Á, bắc và đông Kazakhstan, nam Siberia, bắc Mông Cổ cho đến tận giữa Thung lũng Amur. P. m. excelsus (Buvry, 1857), được tìm thấy ở tây bắc châu Phi. P. m. corsus (Kleinschmidt, 1903), được tìm thấy ở Bồ Đào Nha, phía nam Tây Ban Nha, và Corse. P. m. mallorcae (von Jordans, 1913), được tìm thấy ở quần đảo Baleares. P. m. ecki (von Jordans, 1970), được tìm thấy ở Sardegna. P. m. niethammeri (von Jordans, 1970), được tìm thấy ở Crete. P. m. aphrodite (Madarász, 1901), được tìm thấy ở phía nam Ý, phía nam Hy Lạp, Cộng hòa Síp và quần đảo Aegea. P. m. terrasanctae (Hartert, 1910), được tìm thấy ở Liban, Israel, Jordan và Syria. P. m. karelini (Zarudny, 1910), được tìm thấy ở đông nam Azerbaijan và tây bắc Iran. P. m. blandfordi (Pražák, 1894),

Mô tả

thế= duller-plumaged great tit with weak breast and belly stripe|nhỏ|Ở con cái và con non, sọc giữa bụng hẹp hơn và đôi khi không liên tục. Bạc má lớn dài từ , và có vẻ ngoài đặc biệt giúp dễ dàng nhận ra. Phân loài đại diện P. m. major có đỉnh đầu màu xanh đen, cổ, họng, yếm và đầu màu đen, má và vành tai màu trắng. Ngực có màu vàng chanh sáng và có một sọc rộng màu đen ở giữa chạy từ yếm đến mông. Có một đốm trắng mờ trên cổ chuyển sang màu vàng xanh ở phía trên gáy. Phần còn lại của gáy và lưng có màu xanh ô liu. Phần trên của cánh có màu xanh lá cây, phần dưới của cánh có màu xám xanh với vạch cánh màu trắng. Đuôi có màu xám xanh với vành ngoài màu trắng. Bộ lông của con cái tương tự như của con đực, ngoại trừ màu sắc tổng thể nhạt hơn, yếm có màu đen nhạt hơn, Chim không thể tổng hợp được carotenoid mà phải lấy từ thức ăn, vì vậy màu sắc càng tươi sáng ở chim trống chứng tỏ khả năng hấp thụ dinh dưỡng của chúng càng tốt. Tuy nhiên, độ bão hòa của màu vàng cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường, chẳng hạn như điều kiện thời tiết. Chiều rộng sọc bụng của con đực, khác biệt ở từng cá thể, là một tiêu chí để con cái lựa chọn, với những con cái tốt hơn dường như chọn những con đực có sọc rộng hơn.

Tiếng hót

trái|nhỏ|150x150px|Tiếng hót của loài trái|nhỏ|150x150px|Một kiểu tiếng kêu khác trái|nhỏ|150x150px|Tiếng kêu của loài ở dạng quang phổ Giống như các loài bạc má khác, bạc má lớn là loài chim biết hót, thậm chí loài có tới 40 kiểu kêu và giọng hót. Các tiếng kêu nói chung giống nhau giữa các giới tính, nhưng con đực kêu nhiều hơn và con cái hiếm khi kêu. Các nốt đơn nhẹ như "pit", "spick" hoặc "chit" được sử dụng làm cách gọi liên lạc. Tiếng "tink" lớn được những con đực trưởng thành sử dụng để báo động hoặc trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ. Một trong những tiếng kêu quen thuộc nhất là "teacher, teacher", thường được ví như tiếng bánh xe rùa, được sử dụng để tuyên bố quyền sở hữu lãnh thổ. Có rất ít sự khác biệt về địa lý trong tiếng kêu, nhưng các cá thể của hai nhóm Nam Á gần đây đã tách khỏi chim bạc má lớn không nhận ra hoặc phản ứng với tiếng kêu của nhóm ôn đới.

Phân bố, môi trường sống và di chuyển

nhỏ|[[Hộp tổ cho bạc má lớn ở Altenbeken, Đức]] trái|nhỏ|224x224px|Bạc má lớn đang hót Bạc má lớn phân bố rộng khắp lục địa Á-Âu. Chúng được tìm thấy trên khắp châu Âu trừ Iceland và phía bắc Scandinavia, bao gồm cả nhiều hòn đảo ở Địa Trung Hải. Tại Bắc Phi, loài được tìm thấy ở Maroc, Algérie và Tunisia. Nó cũng hiện diện ở Trung Đông, khu vực ở Trung Á từ phía bắc Iran và Afghanistan đến Mông Cổ, trên khắp miền bắc Á từ dãy núi Ural đến phía đông tại miền bắc Trung Quốc và Thung lũng Amur.

Bạc má lớn đã được du nhập thành công vào Hoa Kỳ. Chúng được thả ở gần Cincinnati khoảng từ năm 1872 đến 1874 nhưng không thiết lập được tổ. Các kiến nghị cho rằng bạc má lớn là một biện pháp kiểm soát tuyệt vời đối với loài bướm đêm gây hại Cydia pomonella, dẫn đến việc du nhập chúng vào một số khu vực mới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên kế hoạch này đã không được thực hiện. Một quần thể nhỏ hiện diện ở thượng lưu Trung Tây được cho là hậu duệ của những cá thể chim được thả ở Chicago vào năm 2002 cùng với sẻ thông vàng châu Âu, quạ thông Á Âu, sẻ khướu, sẻ thông châu Âu, sẻ thông Saffron, sẻ ngô xanh và hồng tước, mặc dù một số loài có thể đã được du nhập trước. Bạc má lớn đã được nhập nội vào tỉnh Almaty (nay nằm ở Kazakhstan) vào những năm 1960–61 và đã thiết lập các tổ, dù tình trạng hiện tại của chúng không rõ lắm.

Hành vi

Chế độ ăn uống và cho ăn

thế= Male great tit on branch with sunflower seed|nhỏ|235x235px|Giống như những loài bạc má khác, bạc má lớn vận chuyển thức ăn bằng mỏ của chúng, sau đó chuyển nó xuống chân của chúng, nơi thức ăn được giữ trong khi chúng ăn. Bạc má lớn chủ yếu ăn côn trùng và nhện mà chúng bắt được bằng cách mót tán lá vào mùa hè. Những con mồi không xương sống lớn hơn của loài bao gồm gián, châu chấu, dế, bọ cánh gân, bọ cánh da, bọ cánh nửa, kiến, ruồi, bọ cánh lông, bọ cánh cứng, ruồi bọ cạp, bọ chân dài, ong và ong bắp cày, ốc sên và bọ chân đều. Một nghiên cứu được công bố vào năm 2007 cho thấy rằng bạc má lớn giúp giảm tới 50% thiệt hại do sâu bướm gây ra trong vườn táo. Chim non cũng được cho ăn một số loài nhện trong giai đoạn phát triển ban đầu, có thể vì lý do dinh dưỡng. Hành vi này được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1921, và đã lan rộng nhanh chóng trong hai thập kỷ tiếp theo. Vào năm 2009, người ta phát hiện những cá thể bạc má lớn đã giết và ăn não của những con dơi muỗi đang ngủ. Đây là lần đầu tiên một loài chim biết hót được ghi nhận có con mồi là dơi. Bạc má chỉ làm điều này trong mùa đông khi dơi đang ngủ đông và các loại thức ăn khác đang khan hiếm. Chúng cũng đã được ghi nhận là biết sử dụng các công cụ, như là dùng một cây kim bằng gỗ thông để lấy ấu trùng từ một cái lỗ trên cây. Chim thiết lập các lãnh thổ này vào cuối tháng một, và bắt đầu xây dựng tổ vào cuối mùa đông hoặc đầu mùa xuân. Mặc dù bạc má lớn là loài một vợ một chồng về mặt xã hội, tình trạng lăng nhăng ở các cặp chim diễn ra thường xuyên. Một nghiên cứu ở Đức cho thấy 40% số tổ chứa một số con non do chim bố mẹ sinh sản chứ không phải do con đực khác, và 8,5% tổng số chim con là kết quả của việc cắm sừng. Những con đực trưởng thành có xu hướng sinh sản thành công hơn so với những con chưa trưởng thành. trái|nhỏ|Trứng của loài, tại [[:en:Museum Wiesbaden|Bảo tàng Wiesbaden]] trái|nhỏ|Chim con trong tổ Bạc má lớn là loài sinh sản theo mùa. Thời gian sinh sản chính xác thay đổi tùy theo một số yếu tố, quan trọng nhất là địa điểm. Mùa sinh sản hầu hết xảy ra từ tháng 1 đến tháng 9. Ở châu Âu, mùa sinh sản thường bắt đầu sau tháng 3. Ở Israel, có những ghi chép đặc biệt về việc sinh sản trong các tháng 10 đến tháng 12. Lượng ánh sáng mặt trời và nhiệt độ ban ngày cũng sẽ ảnh hưởng đến thời gian sinh sản. Một nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa thời điểm đẻ trứng và số lượng con mồi là sâu bướm, và điều này lại tương quan với nhiệt độ. Ở cấp độ cá thể, những con cái trẻ hơn có xu hướng bắt đầu đẻ muộn hơn những con cái lớn hơn. thế= Great tit leaving its wooden nest box|nhỏ|Chim rời hộp tổ phải|nhỏ|Chim ấp trứng trong hộp tổ Bạc má lớn là loài làm tổ trong hốc. Chúng thường sinh sản trong một cái lỗ bên trong cây, hoặc đôi khi là ở trên tường hoặc mặt đá, và chúng thường hay chui vào các hộp làm tổ. Con cái làm tổ bên trong hốc bằng sợi thực vật, cỏ, rêu, tóc, len và lông vũ. Số lượng trứng trong cùng một lần đẻ thường rất lớn, thường là từ 5 đến 12, và có thể lên đến 18. Số lượng trứng thấp hơn khi chim đẻ muộn hơn, hoặc khi mật độ đối thủ cạnh tranh cao hơn. Các cặp chim trẻ thường có số lượng trứng nhỏ hơn. Tính cách biệt cũng ảnh hưởng đến kích thước bầy, với những cá thể trên các đảo xa bờ đẻ trứng ít hơn và to hơn so với các các thể trên đất liền. Trứng có màu trắng với những đốm đỏ. Con cái đảm nhận việc ấp trứng và được con đực cho ăn trong quá trình ấp trứng. Thời gian ấp trứng từ 12 đến 15 ngày.

Chim con được cho ăn khoảng thức ăn mỗi ngày. Thời gian ở tổ của chim con kéo dài từ 16 đến 22 ngày, và độc lập với bố mẹ tám ngày sau khi biết bay. Việc cho chim non ăn có thể tiếp tục sau khi chim con độc lập, kéo dài đến 25 ngày ở lứa chim con đầu tiên, nhưng lên đến 50 ngày ở lứa thứ hai.

Thoái hóa giống ở bạc má lớn xảy ra khi chim con được tạo ra do sự giao phối giữa những cá thể có họ hàng gần. Thể lực giảm sút thường được coi là hậu quả của sự gia tăng biểu hiện của các alen lặn có hại ở những cá thể con này. Trong các quần thể tự nhiên của P. major, giao phối cận huyết được giảm thiểu bằng cách phân tán các cá thể khỏi nơi sinh của chúng, điều này làm giảm nguy cơ giao phối với họ hàng gần.

Sinh thái học

Cắt hỏa mai là loài săn bạc má lớn. Những cá thể con từ lứa thứ hai có nguy cơ cao bị tấn công hơn, một phần là do loài diều hâu này cần nhiều thức ăn hơn cho con non đang phát triển của chính chúng. Tổ của bạc má lớn thường bị gõ kiến ​​nhỏ sườn đỏ tấn công, đặc biệt là các tổ trong một số loại hộp tổ nhất định. Sóc xám miền Đông du nhập (ở Anh) và triết bụng trắng cũng là những loài săn mồi ở tổ, và chúng cũng có thể bắt những con trưởng thành làm tổ. Một loài rận (Mallophaga), được mô tả là Rostrinirmus hudeci, đã được phân lập và mô tả vào năm 1981 từ bạc má lớn ở trung tâm châu Âu. ​​Bọ chét gà mái Ceratophyllus gallinae cực kỳ phổ biến trong tổ của sẻ ngô xanh và bạc má lớn. Ban đầu chúng là một loài bọ chét bạc má chuyên biệt, nhưng điều kiện khô ráo, đông đúc của chuồng gà đã giúp chúng phát triển mạnh mẽ với vật chủ mới. Loài bọ chét này thường bị bọ hề Gnathoncus punctulatus săn.

Sinh lý học

Bộ ngực lớn của loài được phát hiện là có khả năng thích nghi sinh lý đặc biệt với môi trường lạnh. Khi chuẩn bị cho những tháng mùa đông, chim có thể tăng mức độ sinh nhiệt máu của chúng. Cơ chế cho sự thích ứng này là sự gia tăng theo mùa về thể tích ty thể và quá trình hô hấp của ty thể trong các tế bào hồng cầu, cùng sự gia tăng tách rời chuỗi chuyền điện tử từ quá trình sản xuất ATP. Giảm tổn thương do lạnh và mất nhiệt được thực hiện nhờ sự sắp xếp mạch máu ngược dòng của ngực lớn, và sự co mạch ngoại vi ở các mạch chính trong và xung quanh mỏ và chân của chim. Một nghiên cứu tìm kiếm tài liệu cơ sở dữ liệu đã tìm thấy 1.349 bài báo liên quan đến Parus major trong khoảng thời gian từ 1969 đến 2002. Để thích nghi với môi trường có con người, tiếng hót của loài đã được quan sát thấy là thay đổi trong môi trường đô thị ô nhiễm tiếng ồn. Tiếng hót của loài có tần số cao hơn ở những khu vực có ô nhiễm tiếng ồn tần số thấp so với những khu vực yên tĩnh hơn. Loài bạc má này đã mở rộng phạm vi của chúng, di chuyển về phía bắc tới Scandinavia và Scotland, và phía nam tới Israel và Ai Cập. Tổng cá thể ước tính vào khoảng 300–1.100 triệu con chim trong phạm vi 32,4 triệu km2 (12,5 triệu dặm vuông Anh). Mặc dù đã có một số sự suy giảm dân số cục bộ ở những khu vực có môi trường sống kém chất lượng hơn, nhưng phạm vi rộng lớn và số lượng lớn của loài cho thấy bạc má lớn không bị coi là bị đe dọa, và chim được xếp là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bạc má lớn** (danh pháp hai phần: **_Parus major_**) là một loài chim trong họ Bạc má. Bạc má lớn là một loài phổ biến ở châu Âu, Trung Đông, Trung Á, phân bố đến
**Họ Bạc má** (danh pháp khoa học: **_Paridae_**), là một họ lớn chứa các loài chim nhỏ có dạng sẻ, sinh sống ở Bắc bán cầu và châu Phi. Phần lớn các loài trước đây
**Họ Bạc má đuôi dài** (danh pháp khoa học: **_Aegithalidae_**) là một họ nhỏ chứa 13 loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ với đuôi từ trung bình tới dài khi so sánh với kích thước
**Liên họ Bạc má** (danh pháp khoa học: **Paroidea**) là một liên họ thuộc phân bộ Passeri, gồm 81 loài trong 3 họ. Các loài thuộc liên họ này phân bố rộng khắp Bắc Bán
**Bạc má Nhật Bản** (danh pháp khoa học: **_Parus minor_**), cũng gọi là **Bạc má phương Đông**, là một loài chim thuộc họ Bạc má thay thế bạc má lớn tương tự ở Nhật Bản
**Cá bạc má** (danh pháp hai phần: **_Rastrelliger kanagurta_**) là một loài cá trong họ Cá thu ngừ, còn được gọi là cá thu Ấn Độ. Cá bạc má thường được tìm thấy ở Ấn
Cá bạc má là một loại cá có thịt thơm, ngon, giàu dinh dưỡng, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.Cá bạc má là một loài cá thuộc họ cá thu ngừ,
**Hồ chứa Bạc Phù Lâm** (; , trước đây gọi là _Pokovfulun Reservoir_) là hồ chứa nước đầu tiên ở Hồng Kông. Tọa lạc tại một thung lũng trong Công viên giao dã Bạc Phù
Cá bạc má là một loại cá biển thơm ngon, nhưng nhiều người thắc mắc liệu bà bầu ăn có tốt không? Có lợi ích gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Cá bạc má
**Bạc má sồi** (danh pháp khoa học: **_Baeolophus inornatus_**) là một loài chim trong họ Bạc má. Liên minh Điểu học Mỹ chia **Bạc má một màu** thành Bạc má sồi và Bạc má bách
**Bạc má bách xù** (danh pháp hai phần: **_Baeolophus ridgwayi_**) là một loài chim trong họ Bạc má. Liên minh Điểu học Mỹ chia Bạc má một màu thành Bạc má sồi và Bạc má
**Chồn bạc má Nam** (_Melogale personata_), còn được gọi là **chồn bạc má** **Miến Điện** hay **chồn bạc má** **răng lớn**, là một loài họ Chồn có nguồn gốc ở Đông Nam Á. ## Mô
**Bạc má vàng** (tên khoa học **_Machlolophus holsti_**) là một loài chim trong họ Bạc má. Nó là loài đặc hữu để trung bộ Đài Loan. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng
alt=antifa|nhỏ|300x300px|Hàng loạt máy đánh bạc dựa trên kỹ thuật số bên trong một sòng bạc tại [[Las Vegas]] **Máy đánh bạc** (Tiếng Anh Mỹ), **máy trái cây** (Tiếng Anh Anh), **máy poker** hoặc **pokies** (Tiếng
**Bạc** hay **ngân** là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu **Ag** (từ tiếng Latin: _Argentum_) và số hiệu nguyên tử bằng 47. Là một kim loại chuyển
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Sòng bạc ở Việt Nam** là hoạt động cờ bạc diễn ra tại Việt Nam. Theo định nghĩa không chính thức tại nước này hiện nay, "sòng bạc" (hoặc casino) thường là tổ chức đánh
**Mã khẩn cấp bệnh viện** là những thông tin mã hóa thường được thông báo qua hệ thống truyền thông tin của bệnh viện để cảnh báo cho các nhân viên y tế về các
**Sòng bạc trực tuyến**, hay **online casino**, còn được gọi là sòng bạc ảo hay sòng bạc Internet là các phiên bản trực tuyến của sòng bạc truyền thống. Sòng bạc trực tuyến cho phép
thumb|Hình 1. Hải mã trong não người|260x260px **Hồi hải mã** (hay **hải mã**, **cấu tạo hải mã**, ; , bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại **_ἱππόκαμπος_**, nghĩa là con cá ngựa) là thành
**Lợn rừng lai** hay **Heo rừng lai** (_Sus scrofa_ x _Sus scrofa domesticus_) là một giống lai giữa một con lợn rừng và lợn nhà. Thông thường, lợn rừng lai là con lai giữa lợn
**_Melogale everetti_** là một loài động vật có vú trong họ Chồn, bộ Ăn thịt. Loài này được Thomas mô tả năm 1895. Loài này là loài ăn đêm và chủ yếu ăn thịt nhưng
Khu [[Las Vegas Strip nổi tiếng với mật độ dày đặc của khách sạn kiêm sòng bạc.]] nhỏ|250x250px|Sòng bạc MGM Sòng bạc Monte-Carlo ở [[Monte Carlo|Monte-Carlo, Monaco, mở cửa từ năm 1865]] **Sòng bạc** hay
Kể từ khi được trao trả lại cho Trung Quốc vào năm 1999, Ma Cao vẫn duy trì được vị thế là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới có được
**Ma Cao** hay **Macau** (, ), tên chính thức là **Đặc khu hành chính Ma Cao thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, là một trong hai đặc khu hành chính của nước Cộng hoà
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur), họa phẩm của [[Georges de La Tour, trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris]] **Ngụy biện con bạc**, hay **ngụy biện của tay cá cược**, **ngụy biện Monte Carlo** hoặc
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur à l'as de carreau), họa phẩm của [[Georges de La Tour trưng bày bảo tàng Louvre, Paris]] �7 người đang chơi poker với một người phát bài **Đánh bạc** (hay
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
Trường hợp đầu tiên được xác nhận về đại dịch bệnh virus corona 2019 (COVID-19) tại Ma Cao được công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 2020. Ngày 4 tháng 7 năm 2022, Ma
**Bạc Hy Lai** (sinh ngày 3 tháng 7 năm 1949) là một cựu chính trị gia Trung Quốc. Ông nổi lên trên chính trường từ nhiệm kỳ làm thị trưởng thành phố Đại Liên và
Serum Cỏ Mực Mộc Nhulà sản phẩm kết hợp giữa Đông và Tây, có khả năng làm đen tóc ĐỘT PHÁ ngay từ gốc, kích thích tóc con mọc lên đen bóng, chắc khỏe ĐẦU
Tôm bạc là một loại tôm giàu dinh dưỡng, nó còn gọi là tôm sú bạc. Loại tôm này có nhiều tác dụng cho sức khỏe như giúp chống oxy hóa, hỗ trợ quá trình
Tôm bạc là một loại tôm giàu dinh dưỡng, nó còn gọi là tôm sú bạc. Loại tôm này có nhiều tác dụng cho sức khỏe như giúp chống oxy hóa, hỗ trợ quá trình
**Xu bạc** hay **đồng bạc** là tín tệ kim loại đầu tiên trên thế giới, được đúc hàng loạt và đưa vào lưu thông. Bạc đã được sử dụng để đúc tiền từ thời Hy
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Serum Cỏ Mực Mộc Nhu là sản phẩm kết hợp giữa Đông và Tây, có khả năng làm đen tóc ĐỘT PHÁ ngay từ gốc, kích thích tóc con mọc lên đen bóng, chắc khỏe
Serum Cỏ Mực Mộc Nhu là sản phẩm kết hợp giữa Đông và Tây, có khả năng làm đen tóc ĐỘT PHÁ ngay từ gốc, kích thích tóc con mọc lên đen bóng, chắc khỏe
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
THÔNG TIN CƠ BẢN Dùng cho: Mọi loại tóc. Nhãn hiệu: Đang cập nhật. Dung tích (ml): 30. Ngày sản xuất: . Hạn sử dụng: . CHI TIẾT SẢN PHẨM Mô tả sản phẩm Hộp
COMBO 10 Bịch Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen Chi tiết sản phẩm Tên sản phẩm: Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen-Hộp 10 Gói Thông tín sản phẩm Hộp gồm 10 gói. Dung tích 1 gói :
Chi tiết sản phẩmTên sản phẩm: Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen-Hộp 10 Gói Thông tín sản phẩmHộp gồm 10 gói.Dung tích 1 gói : 30mlXuất xứ: Thái LanHướng dẫn sử dụng : Ghi trên vỏ
THÔNG TIN CƠ BẢNDùng cho:Mọi loại tóc.Nhãn hiệu:Mac.Xuất xứ:Bulgaria.Dung tích (ml):1.Ngày sản xuất: 2020.Hạn sử dụng: 3 Năm.CHI TIẾT SẢN PHẨMComBo 10 Gói Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen - Cam Kết Chính HãngChi tiết sản
THÔNG TIN CƠ BẢNDùng cho:Mọi loại tóc.Nhãn hiệu:Mac.Xuất xứ:Bulgaria.Dung tích (ml):10.Ngày sản xuất: 2020.Hạn sử dụng: 3 Năm.CHI TIẾT SẢN PHẨMComBo 10 Gói Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen - Cam Kết Chính HãngChi tiết sản
Chi tiết sản phẩmTên sản phẩm: Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen-Hộp 10 Gói Thông tín sản phẩmHộp gồm 10 gói.Dung tích 1 gói : 30mlXuất xứ: Thái LanHướng dẫn sử dụng : Ghi trên vỏ
COMBO 10 Bịch Dầu Gội Nhuộm Tóc ĐenChi tiết sản phẩmTên sản phẩm: Dầu Gội Nhuộm Tóc Đen-Hộp 10 Gói Thông tín sản phẩmHộp gồm 10 gói.Dung tích 1 gói : 30mlXuất xứ: Thái LanHướng
DẦU GỘI NHUỘM TÓC ĐEN YICAOTENKhông phải tốn hàng giờ đến tiệm nhộm tóc và chịu đựng mùi hôi của thuốc trong một thời gian dài hôm nay giới thiệu đến bạn Hộp 10 Gói
DẦU GỘI NHUỘM TÓC ĐEN YICAOTENKhông phải tốn hàng giờ đến tiệm nhộm tóc và chịu đựng mùi hôi của thuốc trong một thời gian dài hôm nay giới thiệu đến bạn Hộp 10 Gói
DẦU GỘI NHUỘM TÓC ĐEN YICAOTENKhông phải tốn hàng giờ đến tiệm nhộm tóc và chịu đựng mùi hôi của thuốc trong một thời gian dài hôm nay giới thiệu đến bạn Hộp 10 Gói