✨Alfred Schnittke

Alfred Schnittke

Alfred Garrievich Schnittke (, tiếng Việt: An-phrêt Ga-riê-vic Snit-kê) là nhà soạn nhạc người Nga - Đức, thuộc thời kỳ hiện đại, nổi tiếng vì đã phát triển một kỹ thuật đa âm sắc trong các tác phẩm như bản giao hưởng sử thi số 1 (1969-1972) và bản concerto đầu tiên của mình (1977), dù thời kỳ đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Dmitri Shostakovich. Trong những năm 1980, các nhạc phẩm của ông bắt đầu được biết đến rộng rãi ở nước ngoài qua những xuất bản phẩm bộ tứ tấu đàn dây thứ hai (1980) và thứ ba (1983) và bộ tam tấu đàn dây (1985); vở ba lê Peer Gynt (1985–1987); bản giao hưởng n°3 (1981), n°4 (1984), và n°5 (1988), cũng như bản viola concerto (1985) và bản cello concerto đầu tiên (1985–1986).

Cuộc đời và sự nghiệp

Cha của Schnittke là Harry Maximilian Schnittke (1914–1975), gốc Do Thái sinh ra ở Frankfurt (Đức), chuyển đến Liên Xô năm 1927 làm phóng viên kiêm phiên dịch viên tiếng Đức. Mẹ của ông là Maria Iosifovna Schnittke (1910–1972), là người Đức vùng Volga sinh ở Nga. Bà nội của Schnittke là Tea Abramovna Katz (1889–1970), là một nhà ngữ văn, dịch giả và biên tập viên văn học tiếng Đức.

Alfred Schnittke sinh ra ở thành phố Ăng-ghen (Engels) hồi đó thuộc nước Cộng hòa Volga-Đức của Liên Xô.

Học tư về môn piano tại Viên vào các năm 1946-1948. Sau đó, Schnittke học nhạc tại Nhạc viện Moskva vào các năm 1953-1961, sau ở lại dạy các môn phức điệu và sáng tác đến năm 1972. Ngoài ra, nhà soạn nhạc sinh năm 1934 cũng công tác tại Studio thể nghiệm âm nhạc điện tử của thành phố Moskva.

Phong cách sáng tác

Alfred Schnittke lúc đầu chịu ảnh hưởng của âm nhạc 12 cung. Ngoài ra, Schniittke còn chịu ảnh hưởng của Stockhausen, Cage và Ligeti. Nhưng sau đó, ông đã tăng độ kịch tính, tính tiêu đề cho các tác phẩm của mình bằng cách sử dụng những trích dẫn, những mô phỏng.

Các tác phẩm

Alfred Schnittke đã viết 4 vở opera; tám bản giao hưởng; các bản concerto cho piano, cho violin; bản oratorio Nagasaki cho giọng mez, hơpcj xướng cùng dàn nhạc; bản cantata Những khúc ca về chiến tranh và hòa bình (1959) và nhiều tác phẩm thanh-khí nhạc khác; những tác phẩm cho dàn nhạc thính phòng như bản Prelude tưởng niệm Shostakovich cho 2 violin (1975); những bản sonata cho piano; các tiểu phẩm âm nhạc dành cho đàn organ. Ngoài ra ông còn viết các bài báo phê bình về các tác phẩm của Shostakovich.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Alfred Garrievich Schnittke** (, tiếng Việt: An-phrêt Ga-riê-vic Snit-kê) là nhà soạn nhạc người Nga - Đức, thuộc thời kỳ hiện đại, nổi tiếng vì đã phát triển một kỹ thuật đa âm sắc trong
nhỏ|Số 9 có phải là số định mệnh cho nhạc sĩ sáng tác giao hưởng ?.|110x110px Trong lịch sử âm nhạc, nhất là thời kì nhạc cổ điển, bản giao hưởng số 9 (symphony n°9)
**Dmitri Dmitrievich Shostakovich** (, ; 9 tháng 8 năm 1975; phiên âm: **Sô-xta-cô-vích**) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Nga thời Liên Xô. Ông được coi là một trong những
File:1998 Events Collage 2.0.jpg|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: **Thế vận hội Mùa đông 1998** được tổ chức tại Nagano, Nhật Bản; Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton bị **luận tội** vì vụ
**Yuri Abramovich Bashmet** (, ; sanh ngày 24 tháng 1 năm 1953) là một người điều khiển dàn nhạc cổ điển, nhạc sĩ Violin và rất nổi tiếng với cây đàn viola. ## Tiểu sử
**Alexei Lubimov** (sinh năm 1944, tên đầy đủ là Алексе́й Бори́сович Люби́мов, Alexey Borisovich Lyubimov) là một nghệ sĩ piano người Nga, nghệ sĩ đàn fortepiano và đàn harpsichord. Lubimov từng học tại Nhạc viện
thumb|Chiếc đàn harpsichord này là sản phẩm kết hợp của hai nghệ nhân làm đàn nổi tiếng: [[Andreas Ruckers bắt đầu chế tạo nó tại Antwerp (1646), tiếp theo nó được Pascal Taskin chỉnh sửa
Giao hưởng số 0 có thể là: * Giao hưởng số 0 của Anton Bruckner * Giao hưởng nghiên cứu của Anton Bruckner * Giao hưởng số 0 của Alfred Schnittke * Giao hưởng dành
Trong nghệ thuật, không ít tác phẩm đã bị bỏ dở giữa chừng. Trong nhạc cổ điển cũng vậy, có khà nhiều bản giao hưởng đã không được hoàn chỉnh (đáng ra chúng được 4
nhỏ|David Oistrakh đang biểu diễn một bản concerto cho vĩ cầm năm 1960 **Concerto cho vĩ cầm** là một bản hòa tấu dành cho vĩ cầm độc tấu (đôi khi là hai hoặc nhiều hơn)