✨Śīlabhadra

Śīlabhadra

Śīlabhadra (chữ Phạn: शीलभद्र; chữ Hán: 戒賢, Giới Hiền; 529-645) là một cao tăng và triết gia Phật giáo. Ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là Viện trưởng Tu viện Nālandā, là một đại sư về Yogācāra, và thầy dạy của Đại sư Huyền Trang.

Tiểu sử

nhỏ|Một trang trong [[Đại Đường Tây Vực ký, một tài liệu được sử dụng rộng rãi để mô tả chính xác về Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7.]]

Thiếu thời

Theo các mô tả, Śīlabhadra sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha. Thời thanh niên, Sư từ đi về phía tây đến Nālandā, thụ pháp từ đại sư Dharmapāla của Nālandā, và thụ giới xuất gia tại đây. Theo lời kể của Huyền Trang, Śīlabhadra dần trở nên nổi tiếng nhờ học thức của mình, vang danh ra cả ở nước ngoài. Năm 30 tuổi, sau khi đả bại một Bà-la-môn đến từ miền nam Ấn Độ trong một cuộc tranh luận tôn giáo, nhà vua đã quyết định trao Sư lợi tức của một tòa thành trì. Śīlabhadra miễn cưỡng nhận lấy, dùng nó để xây dựng và duy trì một tu viện ở đó.

Giới Hiền và Huyền Trang

Năm 33 tuổi, nhà sư Huyền Trang đã thực hiện hành trình đến Ấn Độ để nghiên cứu Phật pháp và tìm kiếm các kinh điển Phật giáo để dịch sang tiếng Trung Quốc. Huyền Trang đã dành hơn 10 năm ở Ấn Độ để du hành và học tập với nhiều đại sư Phật giáo. Śīlabhadra được mô tả là đã rất già vào thời điểm này và được các nhà sư vô cùng kính trọng:

Huyền Trang ghi lại số lượng các giảng sư tại Nālandā khi đó là vào khoảng năm 1.510 người. Trong số này, khoảng 1.000 vị có thể giải thích 20 bộ kinh (sūtra) luận (Śāstra), 500 vị có thể giải thích 30 bộ và chỉ có 10 đại sư có thể giải thích 50 bộ. Tổng cộng, Huyền Trang đã mang được 657 bản kinh Phật từ Ấn Độ về Trung Quốc.

Trong lần chuyển luân đầu tiên, Đức Phật dạy Tứ diệu đế tại Vārāṇasī cho những người trong hàng Thanh văn thừa. Giáo lý về lần chuyển luân đầu tiên được minh họa trong _Kinh Chuyển pháp luân (_Pravartana Sūtra''), tiêu biểu cho giai đoạn sớm nhất của giáo lý Phật giáo và thời kỳ sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

Trong lần chuyển luân thứ hai, Đức Phật dạy giáo lý Đại thừa cho chư vị Bồ tát (Bồ tát thừa). Trong các trường phái triết học Ấn Độ, lần chuyển thứ ba được minh họa bởi trường phái Yogācāra của Asaṅga và Vasubandhu.

Śīlabhadra coi những giáo lý từ lần chuyển luân thứ ba (Yogācāra) là hình thức cao nhất của Phật giáo, bởi vì nó giải thích đầy đủ ba bản chất, nhưng đại sư Jñānaprabha của Mādhyamaka đã phản đối ý kiến này một cách đáng chú ý. Thay vào đó, Jñānaprabha coi các giáo lý Du già hành tông thấp hơn Trung quán luận, bởi vì chúng (được cho là) thừa nhận sự tồn tại thực sự của một tâm thức.

Śīlabhadra đã sáng tác văn bản Buddhabhūmivyākhyāna, hiện chỉ còn tồn tại phiên bản bằng tiếng Tây Tạng.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Śīlabhadra** (chữ Phạn: शीलभद्र; chữ Hán: 戒賢, _Giới Hiền_; 529-645) là một cao tăng và triết gia Phật giáo. Ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là Viện trưởng Tu viện Nālandā, là
**Duy thức tông** (zh. 唯識宗, sa. _vijñaptimātravādin_, _yogācārin_, _cittamātravādin_) là tên gọi tại Đông Nam Á của một trường phái Phật giáo. Tại Ấn Độ và Tây Tạng, tông này được gọi là Thức tông,
**Huyền Trang** (chữ Hán: 玄奘; bính âm: _Xuán Zàng_; khoảng 602–664), hay **Huyền Tráng**, tục danh **Trần Huy** (陳禕), cũng thường được gọi là **Đường Tam Tạng** (唐三藏) hay **Đường Tăng** (唐僧), là một cao
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura