✨Vườn Casimir

Vườn Casimir

Vườn Casimir - vườn bách thảo nằm ở trung tâm thành phố Bydgoszcz, gần khuôn viên chính của Đại học Kazimierz Wielki (Casimir the Great University) ở Bydgoszcz (). Khu vườn này được sử dụng cho một số mục đích như nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí. nhỏ|300x300px| Vườn cây 1940

Vị trí và mục tiêu

Địa điểm của khu vườn Casimir này trước đây là Vườn bách thảo cũ của trung tâm thành phố Bydgoszcz. Khu vườn dài và rộng , giáp với các con phố: Jigkiewicza, Niemcewicza và Powstańców Wielkopolskich. Ở phía đông là khuôn viên chính của trường đại học Kazimierz Wielki.

Nhiệm vụ của khu vườn là thu thập, trồng trọt và trưng bày các loài cây thân thảo, cây, cây bụi và các quản lạc thực vật, cho các mục đích khoa học, giáo dục và đại chúng hóa. Nghiên cứu khoa học thường xuyên được thực hiện tại đây (ví dụ nghiên cứu nấm rễ cộng sinh về các loài được chọn, đánh giá sự thụ phấn của côn trùng, nghiên cứu vê loài nấm lớn). Khu vườn cũng tham gia vào Lễ hội Khoa học Bydgoszcz, một sự kiện khoa học nổi tiếng hàng năm được tổ chức bởi các trường đại học Bydgoszcz và các tổ chức phi học thuật kể từ năm 2010
nhỏ|300x300px| Bồn hoa

Lịch sử

Vườn cây được thành lập vào năm 1930, trên khu vườn cũ của trường có tên là Botanik, có quy mô nhỏ hơn ngày nay (0,71 ha). Nó là một phần của quần thể vườn thực vật thành phố, được quản lý bởi kỹ sư Marian Güntzel.

Trong Thế chiến II, cơ sở này đã bị tàn phá một phần bởi những công việc đào đắp cần thiết liên quan đến phòng thủ của thành phố. Sau chiến tranh, chính quyền thành phố đã quyết định khôi phục khu vườn về hình dáng ban đầu. Như vậy, vào ngày 26 tháng 1 năm 1946, Hội đồng thành phố Bydgoszcz đã thông qua nghị quyết cấp cho Vườn bách thảo tư cách là tổ chức nghiên cứu, với một cơ cấu tổ chức riêng biệt. Diện tích khu vườn đã được tăng lên 2,5 ha, và một căn biệt thự được dùng cho việc quản lý vườn cây, cùng với các tòa nhà thương mại, cả hai nằm liền kề với đường Niemcewicza. Ban đầu, một Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Khoa học Tự nhiên đã được lên kế hoạch thành lập tại các tòa nhà này. nhỏ|400x400px| Bức tượng Mùa đông Năm 1951, khu vườn được bàn giao cho Viện nhân giống và Thích nghi cho cây trồng (). Đơn vị này đã quản lí khu vườn đến năm 1979. Cơ sở IHAR vẫn hoạt động cho đến ngày nay tại Powstańców Wielkopolskich Đường 10. Từ năm 1971, vườn cây này là một phần của Bộ sưu tập thực vật trung tâm Ba Lan. Kể từ đó, khu vườn bắt đầu hồi sinh:

  • Năm 2002, hồ nhỏ trong vườn được hiện đại hóa và một số yếu tố kiến trúc nhỏ đã được xây dựng thêm (vườn hồng, vườn thôn quê với môi trường sống cho côn trùng và vườn xương rồng);
  • Từ năm 2006, UKW điều hành khu vực theo Đạo luật bảo tồn thiên nhiên. Vườn bách thảo này hiện là thành viên của Hội đồng Vườn bách thảo Ba Lan;

Đặc điểm

Khu vườn có các sân thượng rộng, với độ dốc nhẹ từ Bắc xuống Nam. Những tác phẩm này đã bị mất, cùng với đồng hồ mặt trời, khi khu vườn thực vật mới tại Myślęcinek mở cửa năm 1979. Nhờ những nỗ lực tài trợ (bởi các tổ chức Ewa Taterczynska Foundation và Bydgoszcz Pomeranian Gas Company), mảnh sân đã được khôi phục lại hình dạng và vị trí ban đầu. Tượng đá Mùa thu () và Mùa đông () đã được Stanisław Radwański từ Gdańsk nhận ra và mang trở lại vườn cây vào giữa tháng 5 năm 2008 và vào ngày 22 tháng 3 năm 2010. Hai tác phẩm điêu khắc cuối cùng, cũng được Stanisław Radwański đặt trở lại khu vườn vào ngày 18 tháng 9 năm 2014 (Mùa xuân - ) và vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, (Mùa hè - ). Ngoài ra, đồng hồ mặt trời bị mất đã được mô phỏng lại bởi Richard Lewandowski. nhỏ|300x300px| Bức phù điêu bản đồ của Bydgoszcz Ở phía nam của vườn bách thảo, dọc theo hàng rào, bức phù điêu năm 1930 hiển thị bản đồ của Bydgoszcz. Được làm bằng đá nhân tạo bởi Bronisław Kłobucki, tác giả của các tác phẩm ngụ ngôn về các mùa, bức phù điêu này diễn tả địa hình sông, thung lũng, đồi, hồ nước, đường sắt, các con đường và tòa nhà nổi bật. Bức phù điêu vốn đi kèm với một hệ thống phun nước (hiện không còn tồn tại) và hai băng ghế đá với những bức mặt nạ đá khắc.

Xung quanh khuôn viên, có một triển lãm các tác phẩm điêu khắc đá ngoài trời có tên Stone Stream (). Những tác phẩm nghệ thuật này đã được mang tới bởi nghệ sĩ Ba Lan (1902-1997), hòa cùng thảm thực vật phong phú của Vườn, mang đến cho nó một vẻ đầy thơ mộng. Các loại cây tiêu biểu nhất là hoa hồng (143 giống), cây phong (26), cây bách xù (24), bạch dương (15), cây trục chính (13) và cây dương (11).

Các loài cây từ thời tiển sử (thời gian hưng thịnh có từ thời kỳ địa chất khác):

  • Betula humilis, họ bạch dương - di tích hậu băng hà;
  • Ginkgo biloba, được coi là một hóa thạch sống;
  • Cây du Nhật Bản - di tích thời Phân đại Đệ Tam Nhật Bản.

Các loài được bảo vệ hợp pháp:

  • Bladdernut châu Âu;
  • Sea Buckthorn;
  • Whitebeam Thụy Điển;
  • Cây thông núi;
  • Yews Nhật Bản và thanh tùng châu Âu;
  • Cây thông Thụy Sĩ;
  • Bạch dương lùn;
  • Cherry Mông Cổ;
  • Thụy hương Á-Âu;
  • Cây dừa lùn.
  • Linh sam trắng;
  • Eastern Emlock;
  • Douglas Fir;
  • Ginkgo;
  • Cự sam;
  • Siberian Carpet Cypress;
  • Tuyết tùng;
  • Ấu trùng, Thông, Chi Vân sam, Chi Lãnh sam, Cypress, Nhai bách và Juniper.

Các loài thương xanh khác:

  • Gỗ hoàng dương;
  • Thorny Scarlet Firethorn;
  • Cây ghi trắng.
  • Liễu;
  • Dâu tằm trắng;
  • Common Ash;
  • Dẻ gai châu Âu.

Các loài ngoại lai (thường được nhập khẩu vào châu Âu từ nước ngoài làm cây cảnh trong vườn):

  • Cà phê Kentucky;
  • Balsam Poplar, nguồn gốc của các bờ sông Bắc Mỹ;
  • Cây bụi ngọt;
  • Katsura;
  • Sồi ngô;
  • Nhót lá hẹp, có nguồn gốc từ thung lũng Balkans;
  • Hackberry Mỹ;
  • Dẻ thơm;
  • Xú xuân, cây châu Á;
  • Cây đậu Ấn;
  • Evodia Hàn Quốc;
  • Mộc qua Kavkaz;
  • Saucer Magnolia, từ Châu Á và Bắc Mỹ.

Các loài Viễn Đông (trong số những loài khác):

  • Ginkgo;
  • Thủy sam (loài có nguy cơ tuyệt chủng);
  • Thông trắng Bhutan;
  • Asunaro;
  • Đỗ trọng (đang bị đe dọa trong tự nhiên);
  • Chinese Kolkwitzia;
  • Xuyên hoàng bá.

Các loài Bắc Mỹ (trong số những loài khác):

  • Sequoia, linh sam trắng, Eastern Emlock, cây Bladdernut;
  • Cam Osga;
  • Quả óc chó đen phương Đông;
  • Bottlebrush Buckeye;
  • Desert False Indigo;
  • Cây hoa tulip;
  • Hoa mộc lan.

Các loài bản địa của công viên bao gồm các giống cây dương, cây phong, bạch dương và cây sồi Áo mọc gần lối vào chính.

Cây thủy sinh

Hệ thực vật thủy sinh trong vườn có hơn 100 loài.

Chim

Vườn bách thảo là nơi sinh sống của rất nhiều loài chim:

  • Bohemian Waxwings (đàn của 320 cá thể trong mùa đông);
  • Bạc má (sẻ ngô than, bạc má lớn, sẻ ngô xanh);
  • Chim bồ câu gỗ;
  • Trèo cây Á-Âu.

Chim cắt hỏa mai thường xuyên được nhìn thấy.

Thư viện ảnh

Tập tin:Bdg arboretumUKW 36 10-2013.jpg|Cây xương rồng Tập tin:Bdg Arboretum UKW22 4-2015.jpg|Nền đất cao Tập tin:Bdg arboretumUKW 41 10-2013.jpg|Các bồn cây Tập tin:Pond Arboretum.jpg|Ao ươm Tập tin:Bdg Arboretum UKW15 4-2015.jpg|Khu vực cây trồng Tập tin:Bdg Arboretum UKW 4poryroku3 4-2015.jpg|Tác phẩm tượng Mùa xuân Tập tin:Summer allegory.jpg|Tác phẩm tượng Mùa thu Tập tin:Spring allegory.jpg|Tác phẩm tượng Mùa hè Tập tin:Mascaron relief arboretum.jpg|Mặt nạ đá khắc
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vườn Casimir** - vườn bách thảo nằm ở trung tâm thành phố Bydgoszcz, gần khuôn viên chính của Đại học Kazimierz Wielki (Casimir the Great University) ở Bydgoszcz (). Khu vườn này được sử dụng
**Công viên Casimir Đại đế** là công viên lâu đời nhất ở Bydgoszcz, có diện tích 2,24   ha. Công viên nằm ở một phần trung tâm của trung tâm thành phố Bydgoszcz, giáp với
nhỏ | Palais Bourbon nhìn từ phía [[sông Seine.]] **Palais Bourbon** (_Cung điện Bourbon_) là tên thường gọi của tòa nhà Quốc hội Pháp hiện nay, công trình nằm bên bờ sông Seine, thuộc Quận
**Cách mạng tháng Bảy** (Pháp) còn được gọi là **Cách mạng Pháp lần thứ hai** hoặc **_Trois Glorieuses_** (_Ba ngày vinh quang)_ hay **Cách mạng năm 1830** là cuộc cách mạng tại Pháp, diễn ra
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Giáo dục bắt buộc ở Ba Lan** bắt đầu từ sáu tuổi bằng lớp tiếp nhận bắt buộc - lớp "0" (tiếng Ba Lan _zerówka_ hay _klasa 0_, theo nghĩa đen là Năm 0). Ở
**Jan II Kazimierz Waza** (tiếng Đức: Johann II. Kasimir Wasa; tiếng Litva: Jonas Kazimieras Vaza; ngày 22 tháng 3 năm 1609 - 16 tháng 12 năm 1672) là Vua Ba Lan và Công tước của
**Lâu đài Ojców** (tiếng Ba Lan: _Zamek Ojców_) - một lâu đài nằm ở vùng cao Kraków-Częstochowa, một phần của hệ thống lâu đài được gọi là _Eagle's Nests_ (tiếng Ba Lan: _Orle Gniazda_) -
**Lâu đài Wawel** là một tòa lâu đài nằm ở trung tâm Kraków, Ba Lan. Được xây dựng theo lệnh của Vua Casimir III Đại đế, lâu đài này bao gồm nhiều công trình kiến
**Lâu đài Pieskowa Skała** (; Tiếng Ba Lan cho _Little Dog's Rock_), là một vách đá vôi trong thung lũng sông Prądnik, Ba Lan, nổi tiếng với lâu đài thời Phục hưng. Nó nằm trong
**Bảo tàng Nghệ thuật kim loại ở Wrocław** (tiếng Ba Lan: _Muzeum Sztuki Medalierskiej we Wrocławiu_) là một bảo tàng tọa lạc tại số 35 phố Casimir Đại đế, Wrocław, Ba Lan. Bảo tàng này
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Friedrich Wilhelm** (16 tháng 2 năm 1620 – 29 tháng 4 năm 1688) là Tuyển đế hầu thứ 11 của Brandenburg và đồng thời Công tước của Phổ trong liên minh cá nhân Brandenburg-Phổ, trị
**Gdańsk**, tên trước kia bằng tiếng Đức là **Danzig** (xem _Các tên_ bên dưới), là một thành phố bên bờ biển Baltic, thuộc miền bắc Ba Lan, ở giữa vùng đô thị lớn thứ tư
**Lâu đài Hoàng gia Niepołomice** là một lâu đài gothic từ giữa thế kỷ 14, được xây dựng lại theo phong cách cuối thời Phục hưng và được gọi là _Wawel thứ hai_. Nó nằm
Những tàn tích của **lâu đài Czorsztyn** () nằm ở phần cực nam của Ba Lan tại làng Czorsztyn (quận Nowy Targ ở Lesser Poland), bên cạnh hồ Czorsztyn trong biên giới với Vườn quốc
**Đài phun nước Deluge** là một đài phun nước điêu khắc hoành tráng tại Bydgoszcz, hoàn thành các hạng mục của nó từ năm 1904 đến 1943 và sau đó là năm 2014. Trong suốt
phải|nhỏ|300x300px| Từ những năm 1200, nó đã trở thành một khu rừng được sử dụng và bảo vệ đặc biệt ở Ba Lan. Trong hướng nhìn này từ không gian, màu sắc khác nhau có
**Szydłów** là một thị trấn ở Hạt staszow, ŚWIĘTOKRZYSKIE, Lesser Poland. Đó là trung tâm của gmina (khu hành chính) được gọi là Gmina Szydłów. Nó nằm cách khoảng 13 km về phía tây Staszów và
**Con ông cháu cha** (hay còn gọi là **con ông cháu chị**, **sinh ra ở vạch đích**, thành ngữ tiếng Anh tương đương: _Born with a silver spoon in your mouth_) là một thành ngữ