✨Vàng quỳ
nhỏ|phải|Một cục vàng đường kính 5 mm (0,2 inch) (dưới đáy), trọng lượng khoảng 1,263 g, có thể được dát mỏng bằng đập búa thành vàng quỳ diện tích khoảng 0,5 m² (5,4 foot vuông). Bảo tàng [[mỏ vàng Toi, Nhật Bản.]] nhỏ|phải|Vàng quỳ sản xuất tại Kanazawa. Vàng quỳ hay vàng lá là vàng nguyên chất hoặc hợp kim vàng (pha lẫn với bạc, đồng, platin v.v.) với hàm lượng vàng cao, được dát mỏng bằng đập búa, hiện nay thường với độ dày khoảng 0,1 µm, – nghĩa là bằng độ dày của vài trăm nguyên tử vàng (nguyên tử vàng có bán kính theo các tính toán khác nhau trong khoảng 135-174 pm), nhưng trong thời cổ đại có thể dày gấp khoảng 10-30 lần và trong thời Trung cổ có thể dày gấp 5-10 lần như thế. Nó thường được sử dụng trong thếp vàng. Vàng quỳ sẵn có với nhiều loại kara và sắc thái. Loại vàng được sử dụng phổ biến nhất là vàng 22 kara (91,7% Au).
Vàng quỳ là một loại lá kim loại, nhưng thuật ngữ này hiếm khi sử dụng khi nói tới các quỳ vàng mà thường được dùng để chỉ các phiến/lá vàng có độ dày trên 10 µm. và màu sắc của chúng thay đổi từ vàng ánh lục tới vàng và vàng ánh đỏ trong ánh sáng chiếu tới. Tại Trung Quốc người ta gọi là "cửu xích bát hoàng thất thanh", (nghĩa là vàng quỳ chứa trên 90% Au có màu vàng thiên về ánh đỏ, chứa từ 80% tới 90% Au có màu vàng và từ 70% tới 80% Au có màu vàng thiên về ánh xanh). Trong ánh sáng trắng chiếu từ nền thì vàng quỳ có màu lam ánh lục. Vàng trắng màu trắng bạc chứa khoảng 50% vàng tinh khiết.
Sắp đặt và dán vàng quỳ thành lớp trên một mặt phẳng được gọi là thếp vàng. Thếp vàng bằng nước theo truyền thống là khó nhất và được đánh giá cao trong các kiểu thếp vàng. Cách thếp vàng theo kiểu này hầu như không thay đổi màu sắc sau nhiều trăm năm và hiện nay vẫn được làm thủ công.
Lịch sử
nhỏ|Tượng bồ tát [[Kim Cương Tát Đóa thếp vàng tại Tây Tạng.]] Các nền văn minh cổ trên thế giới đều có kỹ nghệ chế tạo vàng lá hay vàng quỳ cao. Tại miền nam Ai Cập, người ta tìm thấy một chiếc bình bằng đá thếp vàng có niên đại từ thời kỳ Naquada (4000-3000 TCN), hiện lưu giữ tại Bảo tàng Louvre. Tài liệu cổ xưa nhất về vàng lá hoặc tạo hình vàng lá bằng cơ khí được tìm thấy trong một ngôi mộ Ai Cập ở Saqqara, có niên đại 2500 TCN. hay những chiếc lọ rộng cổ với nắp có niên đại 1479-1425 TCN đều có trang trí là vàng lá. Kỹ thuật đập vàng làm vàng quỳ dường như đã được hoàn thiện ở Ai Cập cổ đại, khi có tác giả cho rằng một miếng vàng quỳ độ dày 0,2 µm đã được tìm thấy ở Luxor có niên đại tới thời Vương triều thứ 18 (1550-1300 TCN). với các dữ liệu do học giả này cung cấp về trọng lượng của một chồng 1000 quỳ vàng thì tính toán đơn giản cho thấy rằng những người thợ đập vàng thời kỳ đó có thể đạt đến độ dày 0,4 µm. Trong thời Trung Cổ, các khu vực như Hamburg, Viên đều có nghề gia công vàng thành vàng quỳ.
Tại Trung Quốc, nghề sản xuất vàng quỳ là một nghề thủ công truyền thống, với các ghi chép lịch sử còn lưu lại là bắt đầu từ thời kỳ Đông Tấn, được hoàn thiện và duy trì tới nay. Tổ nghề được cho là Đạo gia kiêm nhà luyện đan Cát Hồng (葛洪, 283-363). Sách Đan Dương ký (丹阳记) của Sơn Khiêm Chi (山谦之, ?-454) thời Lưu Tống có ghi chép rằng chính quyền Lưu Tống khi đó đã cho thành lập cơ quan quản lý vàng lá, bạc lá và gấm. Thời Minh và Thanh đều thiết lập vân cẩm chức tạo phủ (cơ quan quản lý hàng gấm dệt may có thêu kim tuyến). Nam Kinh được coi là nơi khai sinh ra nghề làm vàng quỳ tại Trung Quốc và hiện nay Nam Kinh là trung tâm sản xuất vàng quỳ lớn nhất thế giới. Trình độ chế tạo vàng quỳ của Nhật Bản đạt tới mức tinh xảo với chất lượng sản phẩm rất cao. Khu vực chính sản xuất vàng quỳ ở Nhật Bản là Kanazawa (Kim Trạch) thuộc tỉnh Ishikawa. Công nghệ sản xuất vàng quỳ tại đây phát triển từ công nghệ mà hòa thượng Giám Chân (鉴真, 688-763) thời Đường đem từ Trung Quốc sang.
Phân loại
Tại Trung Quốc người ta gọi vàng quỳ là kim bạc (金箔) - nghĩa đen là vàng mỏng - và phân biệt các loại vàng quỳ theo màu sắc của miếng quỳ vàng thành "hồng kim" (红金, vàng đỏ), "hoàng kim" (黄金, vàng có màu vàng), từ thời Thanh cho đến nay phân biệt thành "khố kim bạc" (库金箔), "tô đại xích" (苏大赤), "điền xích kim" (田赤金). Khố kim bạc là vàng quỳ có màu hơi ngả sang ánh đỏ, với hàm lượng vàng cao nhất, được sản xuất với kích thước lá vàng quỳ lớn nhất, khoảng 10,9 × 10,9 cm. Tô đại xích có màu vàng, lá vàng quỳ kích thước 9,33 × 9,33 cm. Vàng quỳ với màu vàng nhạt ánh trắng gọi là điền xích kim, màu sắc trông giống như vàng nhưng thực tế là dùng bạc (Ag) để hun, còn gọi là "tuyển kim bạc" (选金箔). Các kích thước miếng vàng quỳ phổ biến tại Trung Quốc bao gồm 10,9 × 10,9 cm, 9,33 × 9,33 cm, 8,5 × 8,5 cm, 8,33 × 8,33 cm, 8,0 × 8,0 cm, 4,45 × 4,45 cm.
Hiện nay để kiểm tra vàng quỳ, tại Trung Quốc người ta dựa vào phân tích quang phổ hoặc sử dụng nước cường toan (aqua regia) và để xác định chính xác hàm lượng vàng thì dùng phân tích quang phổ phát xạ nguyên tử plasma ghép đôi cảm ứng (ICP-AES). Theo tiêu chuẩn công nghiệp Trung Quốc QB/T1734-2008 thì để đặt tên cho màng vàng (kim mô, 金膜) thì người ta ghi theo hàm lượng vàng trong đó, như Kim mô 99%, Kim mô 99,9% mà không ghi tắt là K. Các hàm lượng tiêu chuẩn bao gồm 74±1%, 77±1%, 92±1%, 96±1%, 98±1% và 99±0,5%. Độ dày tiêu chuẩn 0,11±0,02 µm.
Sản xuất
nhỏ|Làm vàng quỳ ở [[Mandalay, Myanmar.]] Các quốc gia sản xuất nhiều vàng quỳ nhất thế giới là Trung Quốc, Nhật Bản, Italia, Đức, Ấn Độ và Thái Lan. Một số công ty có ảnh hưởng lớn tới thị trường vàng quỳ thế giới là Công ty TNHH Tập đoàn Kim bạc Nam Kinh (南京金箔集团有限责任公司, Trung Quốc), Manetti (Italia), The Gold Leaf Company (Hoa Kỳ), W & B Gold Leaf (Hoa Kỳ), DeLafée (Thụy Sĩ), NORIS (Đức), L.A. Gold Leaf U.S. (Hoa Kỳ), Silver Star (Ấn Độ), CornucAupia (Hoa Kỳ), Easy Leaf Products (Hoa Kỳ), Lymm Wrights (Anh), Horikin (Nhật Bản).
Một quy trình sản xuất vàng quỳ được đưa ra như sau:
Nấu chảy và tạo hợp kim (gồm Au, Ag, Cu - tùy theo mục đích sử dụng). Đúc khuôn thép thành thỏi nặng 220 g, với chiều cao 5 mm, chiều rộng 40 mm. Cán bằng cách di chuyển liên tục trên một máy cán có thể dịch chuyển thuận nghịch với các bề mặt được bôi trơn tốt và đánh bóng như gương để độ dày xuống ~17 μm. Ủ ở 700-800 °C để làm mềm và dẻo kim loại. Cắt thành vàng lá kích thước 40 × 40 mm, đặt giữa các tờ giấy cacbon đen không tĩnh điện (như giấy phủ bồ hóng) thành các buộc, mỗi buộc 1.000 tờ. Đập lần 1 để đạt kích thước 150 × 150 mm, khi đó độ dày xuống ~1,2 μm. Cắt mỗi tờ 150 × 150 mm thành 9 tờ kích thước 50 × 50 mm, nhồi khuôn bằng màng polyethylene terephtalate (PET) dày 18 μm quét vecni hữu cơ với bột thạch cao mịn và xà phòng (để có ma sát thích hợp với vàng) thành các buộc, mỗi buộc 2.000 tờ. Đập lần 2 để đạt kích thước 122 × 122 mm, khi đó độ dày xuống ~0,2 μm. Cuối cùng cắt và đóng gói vàng quỳ thành phẩm. Quá trình này thể hiện nhiều khía cạnh đặc biệt. Nó đòi hỏi độ giãn dài rất cao, bằng 25.000 lần (= 5 mm/0,0002 mm). Sản phẩm cuối cùng rất mềm dẻo dễ uốn, nhưng rủi ro nhăn và xé rách rất cao. Nó chỉ được xử lý bằng một loại lưỡi dao hoặc bàn chải đặc biệt. Để sản xuất 100 g vàng quỳ cần bắt đầu với khoảng 400 g vàng. Nguyễn Quý Trị, người Hội Xuyên, Liễu Trai (nay thuộc thị trấn Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) được coi là ông tổ nghề làm vàng quỳ tại Việt Nam. Campanile hay tháp chuông thế kỷ 14, cao nhất ở Roma, với độ cao 75 m (240 ft). Trần nhà kiểu ô cờ có từ đầu thế kỷ 16 của vương cung thánh đường này, được thiết kế bởi Giuliano da Sangallo (1445-1516), được cho là được thếp vàng mà Christopher Columbus (1451-1506) đã tặng cho Ferdinand và Isabella, trước khi được truyền lại cho Giáo hoàng người Tây Ban Nha là Alexander VI. Bức khảm ở hậu cung, Lễ Đăng quang của Đức Bà, có từ năm 1295 và được giáo sĩ dòng Phanxicô kiêm họa sĩ và thợ khảm là Jacopo Torriti ký tên. nhỏ|phải|Các ô cờ trang trí bằng thếp vàng và sơn trên vòm phòng Thượng viện Canada ở [[Khối Trung tâm.]]
Tại Ottawa, Ontario, Khối Trung tâm là tòa nhà chính của tổ hợp nghị viện Canada trên đồi Nghị viện (Parliament Hill), bao gồm các phòng cho Hạ nghị viên và Thượng nghị viện, cũng như văn phòng của một số thành viên Nghị viện, thượng nghị sĩ và các công chức quản lý cấp cao của cả hai viện. Đây cũng là vị trí của một số không gian nghi lễ, chẳng hạn như Đại sảnh Vinh dự, Sảnh Tưởng niệm và Đại sảnh Liên bang. Ở cánh phía đông của Khối Trung tâm là phòng Thượng viện, trong đó đặt ngai vàng dành cho quân chủ Canada và phu nhân/phu quân của quân chủ, hoặc cho toàn quyền liên bang và phu nhân/phu quân của toàn quyền, và từ đó quân chủ hoặc toàn quyền có bài phát biểu từ ngai vàng và trao Chuẩn y của Hoàng gia đối với các dự luật được quốc hội thông qua. Màu tổng thể trong phòng Thượng viện là màu đỏ, được nhìn thấy ở vải bọc, thảm và rèm, và phản ánh cách phối màu của Thượng viện Anh ở Vương quốc Anh; màu đỏ là màu hoàng gia, gắn liền với Vương miện và chế độ thế tập quý tộc. Bao trùm căn phòng là trần thếp vàng với các ô bàn cờ hình bát giác chìm sâu, mỗi ô đều có các biểu tượng huy hiệu, bao gồm lá phong, fleur-de-lis (hoa li), sư tử chồm lên, clàrsach, rồng Wales và sư tử đi ngang. Mặt phẳng này nằm trên 6 đôi trụ bổ tường và 4 trụ bổ tường đơn lẻ, mỗi trụ có đầu cột là một trụ khắc tượng phụ nữ (caryatid) và giữa chúng là các cửa sổ trời lấy sáng. Bên dưới các cửa sổ trời là dầm đầu cột liên tục, chỉ bị gián đoạn tại các mái hiên trang trí ở phần đáy của mỗi trụ bổ tường nói trên.
Trên các bức tường phía đông và phía tây của căn phòng là 8 bích họa mô tả các cảnh trong Thế chiến I; được vẽ từ năm 1916 đến năm 1920, chúng ban đầu là một phần của trên hơn 1.000 tác phẩm của Quỹ Tưởng niệm Chiến tranh Canada, do Tôn ông Beaverbrook thành lập, và được dự định treo tại một công trình tưởng niệm cụ thể. Tuy nhiên, dự án này đã không hoàn thành và các tác phẩm được lưu giữ tại Phòng trưng bày Quốc gia Canada cho đến năm 1921, khi Nghị viện đề nghị cho mượn một số bức tranh sơn dầu của bộ sưu tập để trưng bày tại Khối Trung tâm. Các bích họa này vẫn ở lại trong phòng Thượng viện kể từ đó.
Ở London, khách sạn Criterion là một tòa nhà sang trọng đối diện với giao lộ Piccadilly ở trung tâm London. Nó được kiến trúc sư Thomas Verity (1837-1891) thiết kế và chỉ đạo xây dựng theo phong cách Tân Byzantin cho công ty hợp danh Spiers và Pond, mở cửa ngày 17 tháng 11 năm 1873. Một trong những đặc điểm nổi tiếng nhất của khách sạn này là trần khảm vàng 'lấp lánh', được che phủ ở hai bên và trang trí hoa văn khắp nơi bằng các đường và các mẫu trang trí bằng vật khảm màu xanh lam và trắng. Trang trí tường rất phù hợp với trần nhà bằng thếp vàng quỳ, kết hợp các loại đá bán quý như ngọc phỉ thúy, xà cừ, ngọc lam được lót bằng cẩm thạch ấm áp và tạo thành các chuỗi cuốn giả với vòm bán elip tựa trên các cột hình bát giác mảnh mai, các đầu cột không đúc khuôn và chân cuốn được nạm bằng khảm nền vàng.
Vàng quỳ tô điểm cho những cánh cổng sắt rèn bao quanh Cung điện Versailles ở Pháp, khi hoàn thiện lại những cánh cổng gần 200 năm sau khi chúng bị kéo đổ trong cuộc Cách mạng Pháp, người ta phải cần tới hàng trăm kg vàng quỳ để hoàn thành quy trình này.
Ẩm thực
[[Mille-feuille với một ít vàng quỳ rắc bên trên, khách sạn Nishimuraya Shogetsutei (西村屋ホテル招月庭), Kinosaki, Toyooka, tỉnh Hyōgo, Nhật Bản.]] Vàng quỳ (cũng như lá kim loại khác như vark – bạc lá hoặc bạc pha vàng lá) đôi khi cũng được dùng để trang trí đồ ăn hay đồ uống, thường là để tạo ra cảm nhận sang trọng, quý phái; tuy nhiên, nó không có hương vị gì. Nó đôi khi được tìm thấy trong các món tráng miệng hay bánh, kẹo, bao gồm sôcôla, mật ong và mithai. Ở Ấn Độ, nó có thể được sử dụng hiệu quả như một đồ trang điểm, với các phiến mỏng được đặt trên một món ăn chính, đặc biệt là trong các dịp lễ hội. Khi được sử dụng làm phụ gia thực phẩm, vàng có số E là E175 trong nhóm phụ gia tạo màu. Một loại trà xanh nghệ nhân truyền thống (tuổi đời hàng thế kỷ) có chứa những miếng vàng quỳ; 99% loại trà này được sản xuất ở Kanazawa, Nhật Bản, một thành phố lịch sử về nghề thủ công của samurai. Thành phố này cũng là nơi có bảo tàng vàng quỳ là Bảo tàng Vàng quỳ Kanazawa Yasue.
thumb|Rượu vang nổ vàng của Áo chứa một ít vàng quỳ 23K. Tại châu Âu Lục địa, rượu mùi với những miếng vàng quỳ nhỏ trôi nổi bên trong được biết đến từ cuối thế kỷ 16; ban đầu, thực hành này được coi là có tính chất y học để bảo vệ sức khỏe. Các ví dụ nổi tiếng là Danziger Goldwasser, xuất xứ từ Gdańsk (Ba Lan), được sản xuất ít nhất từ năm 1598, Goldstrike từ Amsterdam (Hà Lan), Schwabacher Goldwasser từ Schwabach (Đức) và Goldschläger của Thụy Sĩ, có lẽ được biết đến nhiều nhất ở cả Canada và Hoa Kỳ.
Y học truyền thống
Tại Trung Quốc, người ta cũng dùng vàng quỳ làm thuốc trong y học cổ truyền. Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536) thời Nam Lương trong Danh dược liệt lục viết rằng: vàng quỳ có khả năng "trấn tinh thần, kiên cốt tủy, thông lợi ngũ tạng tà khí". Chân Quyền (甄权, 541-643) thời Đường viết trong Dược tính bản thảo rằng vàng quỳ có thể "liệu tiểu nhân kinh thương, ngũ tạng kinh bệnh thất chí, trấn tâm an hồn phách". Lý Thời Trân (李时珍, 1518-1593) thời Minh trong Bản thảo cương mục viết rằng vàng quỳ có khả năng "liệu kinh giản phong nhiệt can đảm chi bệnh" và "thực kim, trấn tinh thần, kiên cốt tủy, thông lợi ngũ tạng tà khí, phục chi thần tiên, vưu dĩ bạc nhập hoàn tán phục, phá lãnh khí, trừ phong" hay Hoàng Cung Tú (黄宫绣, 1720-1817) thời Thanh viết trong Bản thảo cầu chân rằng: "kim bạc khả dĩ trừ tà sát độc, giải nhiệt khu phiền, an hồn định phách, dưỡng tâm hòa huyết". Ngày nay, hiệu thuốc Đồng Nhân đường trong các loại thuốc như Ngưu hoàng an cung hoàn, Ngưu hoàng thanh tâm hoàn, Ngưu hoàng hàng áp hoàn, Ô kê bạch phượng hoàn hay Đại hoạt lạc đan hoặc là dùng vàng quỳ làm một thành phần trong thuốc hoặc trong thành phần làm vỏ bọc thuốc.