✨USS Yakutat (AVP-32)
USS Yakutat (AVP-32) là một tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Barnegat được sử dụng từ năm 1944 đến năm 1946. Yakutat đã tham gia chiến đấu ở Mặt trận Thái Bình Dương trong giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới II. Sau chiến tranh, tàu được chuyển giao cho Tuần duyên Hoa Kỳ từ năm 1948 đến năm 1971 với tên gọi USCGC Yakutat (WAVP-380), sau đó là WHEC-380, tham gia phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam. Sau đó được chuyển sang cho Hải quân Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1971 với tên gọi RVNS Trần Nhật Duật (HQ-3). Khi Nam Việt Nam sụp đổ vào năm 1975 sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, tàu đào thoát sang Philippin nơi mà Hải quân Philippine đã sử dụng từ năm 1976 cho đến năm 1982.
Lắp ráp và vận hành
Trước khi trở thành RVNS Trần Nhật Duật (HQ-3), tàu làYakutat (AVP-32) được đặt lườm vào ngày 1 tháng 4 năm 1942 tại Seattle, Washington bởi công ty đóng tàu Associated. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1942, tàu được đặt tên và ra mắt, được đỡ đầu bởi bà Peter Barber, một người mẹ đã mất ba người con trai khi tàu chiến bị đánh chìm vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 bởi cuộc tấn của Nhật Bản tại Pearl Harbor, Hawaii. Tàu nhập biên chế vào ngày 31 tháng 3 năm 1944 với sự chỉ huy của George K. Fraser.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau chuyến chạy thử tại khu vực San Diego, Yakutat bắt đầu khởi hành vào ngày 25 tháng 5 năm 1942 và đến San Pedro, California vào cuối ngày 26 tháng 5 năm 1944. Sau khi thời gian neo đậu ở San Pedro, tàu khởi hành đi Trân Châu Cảng vào ngày 17 tháng 6 năm 1944. nhiệm vụ hằng ngày của tàu vẫn bận rộn. Chẳng hạn, ngày 28 tháng 6 năm 1945, thủy phi cơ Consolidated PB2Y Coronado đâm sau khi cất cánh và chìm khoảng 500 yard (457 m) sau khi rời khỏi mạn phải tàu. Yakutat đã phái hai chiếc thuyền đến hiện trường và cứu hộ 8 người, trong khi thuyền của một con tàu khác cứu sống 3 người còn lại từ Coronado. Tất cả mười một người đã được đưa lên tàu Yakutat, nơi họ được kiểm tra và trở về phi đội VPB-13 của họ.
Danh hiệu và giải thưởng
Yakutat đạt được bốn Ngôi sao chiến trường vì phục vụ Thế chiến II của tàu.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Mặc dù chiến thắng Nhật Bản có nghĩa là các hoạt động tấn công chống lại Nhật Bản chấm dứt, nhưng nó chỉ là sự bắt đầu của sự chiếm đóng lâu dài Nhật Bản. Yakutat vẫn ở vịnh Chimu trong suốt tháng 8 và hầu hết tháng 9 năm 1945, trước khi tàu rời khỏi vùng biển Nhật Bản vào ngày 20 tháng 9 năm 1945 với nhiệm vụ hộ tống .
Trên đường đi, hai máy bay thủy phi cơ bắt kịp Lực lượng đặc biệt 56.4.3 của Phó Đô đốc Jesse B. Oldendorf, được hình thành xung quanh các tàu and và trở thành Lực lượng đặc biệt 56 và sau đó, khi được đặt tên lại là Lực lượng đặc biệt 51.
Yakutat đã đến Wakayama, Honshu vào ngày 22 tháng 9 năm 1945, tìm kiếm việc cung cấp hậu cần cho thủy phi cơ của tàu đã và hoạt động như một tàu kiểm soát thủy phi cơ. Yakutat đã trải qua một thời gian ngắn trước khi bắt đầu các hoạt động bảo dưỡng máy bay biển của tàu tại Wakayama. Tàu đã hoạt động như một tàu kiếm soát sử dụng cảng Wakayama cho đến ngày 12 tháng 10 năm 1945, khi tàu chuyển sang khu vực Seto, nơi tàu đã thực hiện việc cung cấp hậu cần cho các thủy phi cơ và các hoạt động kiểm soát hải quân cho một ít hơn một tháng.
Được tiến hành từ ngày 14 tháng 11 năm 1945, Yakutat đến căn cứ quân sự Sasebo vào ngày 15 tháng 11 năm 1945 và ở đó cho đến ngày 19 tháng 11 năm 1945.
Vào ngày 19 tháng 11 năm 1945, Yakutat khởi hành từ Sasebo đến Hoa Kỳ với 58 sĩ quan và 141 vận hành như là hành khách. Sau khi dừng tại Midway để nạp nhiên liệu vào ngày 27 tháng 11 năm 1945, tàu tiếp tục hành trình đến Tây Bắc Thái Bình Dương.
Ngừng hoạt động
Đến cảng Townsend, Washington vào ngày 6 tháng 12 năm 1945, akutat đã chuyển tất cả thủy thủ đoàn của mình đến tàu đổ bộ USS LCI-957 để tiếp tục chuyên chở, sau đó chuyển sang Sinclair Inlet, Washington. Nơi tàu đã dỡ bỏ tất cả vũ khí, đạn dược trước khi báo cáo vào ngày 7 tháng 12 năm 1945 cho Tập đoàn Bremerton thuộc Hạm đội Dự trữ Thái Bình Dương tại Bremerton, Washington. Yakutat sau đó chuyển về phía Nam đến trạm không quân hải quân tại Alameda, California, nơi mà tài đã bị ngừng hoạt động vào ngày 29 tháng 7 năm 1946.