✨USS William C. Miller (DE-259)

USS William C. Miller (DE-259)

USS William C. Miller (DE-259) là một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên thủy thủ William Cicero Miller (1919-1941), phục vụ cùng Liên đội Tuần tiễu VS-6 như xạ thủ súng máy đuôi Douglas SBD Dauntless trên tàu sân bay , và đã tử trận trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12, 1941. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế vào ngày 17 tháng 12, 1945 và xóa đăng bạ vào ngày 8 tháng 1, 1946. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 4, 1947. William C. Miller được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Những chiếc thuộc lớp tàu khu trục Evarts có chiều dài chung , mạn tàu rộng và độ sâu mớn nước khi đầy tải là . Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn ; và lên đến khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất cho phép đạt được tốc độ tối đa , và có dự trữ hành trình khi di chuyển ở vận tốc đường trường .

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. vì I-6 đã bị đắm do tai nạn va chạm với tàu chở hàng Toyokawa Maru vào ngày 16 tháng 6, 1944.

Sau khi kết thúc chiến dịch đổ bộ tại Tinian, William C. Miller hộ tống cho tàu tuần dương hạng nặng rời hòn đảo này vào ngày 21 tháng 8, ghé qua Eniwetok thuộc quần đảo Marshall ba ngày sau đó trước khi tiếp tục hành trình quay về quần đảo Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 2 tháng 9. Nó quay trở lại Eniwetok vào cuối tháng 10, rồi chuyển đến Ulithi thuộc quần đảo Caroline để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Eniwetok vào ngày 5 tháng 11. Đến nơi năm ngày sau đó, nó lại lên đường vào ngày 13 tháng 11 tiếp tục hộ tống một đoàn tàu quay về quần đảo Hawaii, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 11. Con tàu được sửa chữa tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng cho đến hết năm 1944.

1945

Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 6 tháng 2, 1945 trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 51.6.2, William C. Miller tham gia vào cuộc đổ bộ lên Iwo Jima từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3. Sau khi kết thúc chiến dịch, nó đi ngang qua Guam và Eniwetok để quay trở về Trân Châu Cảng vào đầu tháng 4. Con tàu tiếp tục quay về vùng bờ Tây và ở lại San Francisco, sau đó là San Diego, cho đến ngày 13 tháng 6, khi nó cùng tàu hộ tống khu trục lên đường đi sang quần đảo Hawaii. Sau khi đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 6, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Eniwetok, đến nơi vào ngày 6 tháng 7. Nó lại ra khơi hộ tống các đơn vị thuộc Đệ Tam hạm đội trong các chiến dịch không kích xuống các đảo chính quốc Nhật Bản, và tiếp tục vai trò này cho đến ngày 15 tháng 8, khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng chấm dứt cuộc chiến tranh.

Đi đến Ulithi vào ngày 19 tháng 8, William C. Miller lại tiếp tục lên đường hướng sang Nhật Bản trong thành phần lực lượng chiếm đóng. Nó đi đến vịnh Tokyo vào ngày 26 tháng 8, và vẫn có mặt tại đây khi chứng kiến lễ ký kết văn kiện đầu hàng trên thiết giáp hạm vào ngày 2 tháng 9. Nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ vào cuối tháng 9, đi ngang qua Ulithi, Eniwetok và Trân Châu Cảng, và về đến San Francisco vào ngày 17 tháng 10.

William C. Miller được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 21 tháng 12, 1945; và tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1, 1946. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 10 tháng 4, 1947; và việc tháo dỡ hoàn tất vào ngày 19 tháng 11, 1947.

Phần thưởng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _William C. Miller_ (DE-259)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất