✨USS Ulvert M. Moore (DE-442)
USS Ulvert M. Moore (DE-442) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Ulvert Mathew Moore (1917–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Ném ngư lôi VT-8 trên tàu sân bay , đã tử trận trong Trận Midway vào ngày 4 tháng 6, 1942 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. vào ngày 2 tháng 12, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà L. E. Moore, mẹ của Thiếu úy Moore, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Franklin D. Roosevelt, Jr., con trai của Tổng thống Franklin D. Roosevelt.
Lịch sử hoạt động
Thế Chiến II
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda và sửa chữa sau chạy thử máy, Ulvert M. Moore đã tháp tùng bảo vệ cho tàu sân bay hộ tống đi từ New York đến Norfolk, Virginia vào ngày 18 tháng 9, 1944. Chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương, nó cùng tàu chị em khởi hành từ Norfolk vào ngày 5 tháng 10, hộ tống các tàu tiếp dầu và đi sang Aruba để nhận xăng dầu, rồi tiếp tục hộ tống chúng đi sang vùng kênh đào Panama. Từ đây hai chiếc tàu hộ tống khu trục băng qua kênh đào, đi đến San Diego, California vào ngày 22 tháng 10, và từ đây hộ tống cho thiết giáp hạm trong hành trình đi từ San Pedro, Los Angeles đến quần đảo Hawaii từ ngày 24 đến ngày 30 tháng 10.
Sau khi được sửa chữa cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 11, Ulvert M. Moore gia nhập Đội đặc nhiệm 12.4, được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống , và lên đường đi sang khu vực quần đảo Caroline ngang qua Eniwetok thuộc quần đảo Marshall. Đội đặc nhiệm đã tuần tra chống tàu ngầm trên đường đi khi đến Eniwetok vào ngày 2 tháng 12 và đến Ulithi vào ngày 7 tháng 12. Tại đây đơn vị đổi tên thành Đội đặc nhiệm 30.6 trực thuộc Đệ Tam hạm đội, và hoạt động tuần tra tại vùng biển giữa các quần đảo Mariana và Palau cho đến hết năm 1944.
Rút lui về Ulithi, Ulvert M. Moore ở lại vũng biển này từ ngày 6 đến ngày 18 tháng 2, khi nó lên đường cùng các tàu khác thuộc Đội hộ tống 70 và tàu sân bay hộ tống Tulagi, trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 50.7.3, nhằm bảo vệ chống tàu ngầm cho các tàu sân bay tham gia hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima. Nó hoạt động trên biển suốt 78 ngày liên tục trong các chiến dịch Iwo Jima và Okinawa, hoạt động phối hợp cùng và sau đó với tàu sân bay hộ tống , về phía Đông Nam Okinawa.
Quay trở lại Guam vào ngày 6 tháng 6, Ulvert M. Moore chuyển đến Ulithi để được sửa chữa trước khi lên đường vào ngày 19 tháng 6, cùng với Đội đặc nhiệm 30.8 hỗ trợ tiếp liệu cho các tàu sân bay thuộc Đệ Tam hạm đội dưới quyền Đô đốc William F. Halsey không kích các đảo chính quốc Nhật Bản. Nó hoạt động cùng đội tiếp liệu này cho khi quay trở lại Guam vào ngày 24 tháng 7. Ba ngày sau đó, nó gia nhập một đội đặc nhiệm tìm-diệt tàu ngầm, được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống ,để hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực Đông Bắc Luzon. Chiếc tàu hộ tống khu trục vẫn đang làm nhiệm vụ này về phía Đông Đài Loan khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.
Quay trở về Leyte vào ngày 25 tháng 8, Ulvert M. Moore hộ tống cho Đội đặc nhiệm 32.1 lên đường hướng sang Nhật Bản để làm nhiệm vụ chiến đóng, rồi tiến vào vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9, đúng ngày văn kiện đầu hàng được chính thức ký kết bên trên thiết giáp hạm . Nó làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm tại vùng biển Nhật Bản, hộ tống các đoàn tàu vận tải đưa lực lượng chiếm đóng đến Nhật Bản, và phá hủy những quả thủy lôi trôi nổi trên biển. Nó tiếp tục hoạt động tại khu vực Philippines trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Trân Châu Cảng. Đi đến San Diego, California vào ngày 22 tháng 11, nó được cho xuất biên chế vào ngày 24 tháng 5, 1946, và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.
Chiến tranh Triều Tiên
Sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào tháng 6, 1950, Ulvert M. Moore được cho nhập biên chế trở lại tại San Diego vào ngày 27 tháng 1, 1951 và gia nhập Hải đội Hộ tống 9. Sau giai đoạn chạy thử máy huấn luyện, nó rời San Diego vào ngày 19 tháng 4 để hướng sang Viễn Đông. Đi đến Sasebo, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 5, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 72 để tuần tra tại vùng eo biển Đài Loan, một hoạt động nhằm đề phòng lực lượng Cộng sản xâm chiếm Đài Loan còn do phe Quốc dân Đảng kiểm soát. Nó tách khỏi nhiệm vụ này vào ngày 10 tháng 6, đi đến vịnh Buckner, Okinawa hai ngày sau đó, rồi tuần tra tìm-diệt tàu ngầm ngoài khơi Nhật Bản.
Đi đến Yokosuka vào ngày 16 tháng 6, Ulvert M. Moore lên đường vào ngày 25 tháng 6 để đi sang vùng bờ biển phía Tây bán đảo Triều Tiên, nơi nó gia nhập cùng tàu sân bay Anh để tuần tra và hộ tống. Sang tháng 8, nó tham gia hoạt động bắn phá Wonsan, và bảo vệ cho các hoạt động quét mìn, nơi nó chịu đựng hỏa lực từ những khẩu đội pháo bờ biển đối phương. Con tàu cũng thường xuyên tuần tra lên phía Bắc đến các khu vực Songjin và Chongjin để bắn phá bờ biển và phá hủy các thuyền buồm, cho đến khi quay trở về Sasebo vào ngày 25 tháng 8 để được bảo trì. Nó tiếp tục hoạt động dọc theo bờ biển Bắc Triều Tiên, bắn phá bờ biển và bắn hải pháo theo yêu cầu hỗ trợ cho các hoạt động trên bộ của lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Wonsan, Songjin và Chongjin bờ biển phía Đông Triều Tiên.
Đến cuối tháng 9, Ulvert M. Moore chuyển đến Okinawa để thực hành chống tàu ngầm; tuy nhiên sự xuất hiện của cơn bão Ruth từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 10 khiến nó cùng Hải đội Hộ tống 9 phải quay trở lại vùng biển Triều Tiên. Đi đến ngoài khơi Hungnam vào ngày 14 tháng 10, nó tiếp tục nhiệm vụ tuần tra can thiệp và phá hủy các thuyền buồm đối phương. Vào sáng sớm ngày 17 tháng 10, một khẩu đội pháo bờ biển Bắc Triều Tiên đã bắn trúng một phát đạn pháo vào phòng bánh lái, mảnh đạn pháo đã khiến một thủy thủ tử trận và một sĩ quan cùng một thủy thủ khác bị thương. Hư hỏng nhanh chóng được sửa chữa, và con tàu tiếp tục hoạt động bắn phá bờ biển, tuần tra chống tàu ngầm và phá hủy tàu thuyền và thủy lôi đối phương. Nó rời vùng biển Triều Tiên vào ngày 6 tháng 11 để quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Nhật Bản, và về đến San Diego vào ngày 26 tháng 11.
Sai khi được đại tu tại Xưởng hải quân Hunters Point, San Francisco, Ulvert M. Moore thực hành huấn luyện chống tàu ngầm và phòng không ngoài khơi bờ biển California cho đến ngày 18 tháng 10, 1952, khi nó khởi hành từ San Diego cho lượt phục vụ thứ hai tại Viễn Đông. Chiếc tàu hộ tống khu trục đã hoạt động bắn phá can thiệp dọc theo tuyến đường sắt vận tải ven biển, và phá hoại việc vận chuyển tiếp liệu của đối phương cho đến ngày 19 tháng 12, khi nó đi đến Okinawa để thực hành tìm-diệt tàu ngầm từ ngày 27 tháng 12 đến ngày 9 tháng 1, 1953. Đến ngày 31 tháng 3, hạm trưởng của Ulvert M. Moore kiêm nhiệm Tư lệnh Đội đặc nhiệm 95.3 để thực thi đặc quyền đánh cá của Nhật Bản và Nam Triều Tiên ngoài khơi bờ biển Triều Tiên. Nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ, và về đến San Diego vào ngày 6 tháng 6.
1954 - 1958
Sau khi được bảo trì và tiến hành các hoạt động huấn luyện chống tàu ngầm và phòng không, Ulvert M. Moore lại lên đường trở sang khu vực Tây Thái Bình Dương, đi đến Yokosuka vào ngày 20 tháng 5, 1954. Sau khi đã có được thỏa thuận đình chiến giúp chấm dứt cuộc xung đột tại bán đảo Triều Tiên, trong đợt hoạt động này nó chủ yếu hộ tống các tàu chở dầu vả tàu chở đạn hạm đội; ngoài ra nó còn tham gia các cuộc tập trận đổ bộ, huấn luyện chống ngầm, và thực hành chống tàu ngầm phối hợp cùng hải quân các nước Colombia, Anh và Hà Lan. Trong suốt đợt biệt phái nó lần lượt trải qua ba cơn bão: bão Grace khi con tàu đang neo đậu tại Sasebo; bão June từ ngày 4 đến ngày 15 tháng 9 khi nó phải cơ động ra khỏi vịnh Tokyo để né tránh; và bão Lorna khi nó đang ở ngoài khơi bờ biển Đông Nam Nhật Bản. Khi hoàn thành đợt hoạt động và trên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Midway và Trân Châu Cảng, nó lại phải chịu đựng thêm một cơn bão trong suốt mười ngày.
Cho đến năm 1958, Ulvert M. Moore còn thực hiện thêm ba lượt biệt phái hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Nó được cho xuất biên chế lần sau cùng vào ngày 10 tháng 10, 1958, và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu tại Astoria, Oregon. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12, 1965, và con tàu bị loại bỏ như một mục tiêu thực hành vào ngày 13 tháng 7, 1966, khi bị máy bay từ tàu sân bay và hải pháo đánh chìm ngoài khơi đảo San Nicholas, California.
Phần thưởng
Ulvert M. Moore được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm ba Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Triều Tiên.