✨USS Trout (SS-202)

USS Trout (SS-202)

USS Trout (SS-202) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá hồi chấm.

Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonar và máy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện. Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo /50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ /51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào cuối năm 1943, Trout được nâng cấp lên cỡ pháo 4-inch.

Trout được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 28 tháng 8, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 5, 1940, được đỡ đầu bởi bà Walter B. Woodson, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 11, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Frank Wesley Fenno Jr.

Lịch sử hoạt động

1941

Sau khi hoàn tất chuyến đi chạy thử máy dọc theo vùng bờ Đông và tại khu vực biển Caribe, Trout cùng các tàu ngầm chị em và tham gia thử nghiệm hiệu quả của mìn sâu ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, khi phục vụ như là mục tiêu và lặn đến độ sâu kính tiềm vọng trong khi các liều thuốc nổ TNT nặng được cho kích nổ ở những khoảng cách khác nhau. Dữ liệu thu được từ những thử nghiệm này được áp dụng để thiết kế chống rung động cho những tàu ngầm tiếp theo. Sau đó, nó cùng tàu ngầm chị em khởi hành từ thành phố New York vào ngày 2 tháng 7 để hướng sang khu vực Thái Bình Dương, băng qua kênh đào Panama vào ngày 12 tháng 7, và đi đến San Diego, California vào ngày 20 tháng 7. Nó tiếp tục hành trình chín ngày sau đó, hướng sang khu vực quần đảo Hawaii, và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 4 tháng 8. Gia nhập Đội tàu ngầm 62 trực thuộc Hải đội tàu ngầm 6, chiếc tàu ngầm hoạt động huấn luyện tại vùng biển Hawaii cho đến ngày 29 tháng 11.

Chiều tối hôm đó, lúc đang trên đường quay trở về ngang qua quần đảo Bonin, Trout bắt gặp một mục tiêu, tiếp cận đến khoảng cách và tấn công với hai quả ngư lôi. Đối thủ cũng đáp trả với hai quả ngư lôi, một quả sượt qua mạn trái tàu và quả kia đi ngay trên đầu khi chiếc tàu ngầm lặn xuống độ sâu . Trout trở lên độ sâu kính tiềm vọng để phóng quả ngư lôi thứ ba vào đối thủ, tự nhận đã đánh chìm một tàu tuần tra nhỏ khoảng 200 tấn. Nó về đến căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 3, Từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 23 tháng 4, nó hỗ trợ cho cuộc Không kích Doolittle. đồng thời tấn công một tàu buôn khác nhưng không rõ kết quả. Đến ngày 30 tháng 4, nó tấn công hai tàu buôn ngoài khơi Shimo Misaki nhưng bị trượt cả hai. Vào ngày 2 tháng 5, ngoài khơi bờ biển phía Đông Nam đảo Honshu, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở hàng Uzan Maru (5.014 tấn) tại tọa độ . Chiếc tàu ngầm sau đó phải lặn sâu suốt sáu giờ để né tránh phản công bằng mìn sâu

Vào ngày 28 tháng 9, tại vị trí khoảng về phía Nam Truk, Trout bắt gập một lực lượng bao gồm một tàu sân bay hộ tống, hai tàu tuần dương và hai tàu khu trục. Nó tiếp cận mục tiêu đến khoảng cách , và đến 13 giờ 25 phút đã phóng một loạt năm quả ngư lôi tấn công. Tàu sân bay Taiyō trúng một quả vào phía đuôi bên mạn phải tàu, bốc cháy và chết đứng và khiến 13 thủy thủ tử trận, nhưng nó di chuyển trở lại được lúc 14 giờ. Lẫn khuất trong cơn mưa giông, chiếc tàu sân bay di chuyển với vận tốc và đi đến Truk an toàn vào cuối ngày hôm đó. Trong khi đó Trout phải lặn sâu đến để né tránh mười quả mìn sâu phản công. Một tuần sau đó, tại lối ra vào phía Nam của eo biển Makassar, Trout phóng hai quả ngư lôi tấn công một mục tiêu đang lẫn khuất trong một cơn mưa giông, được cho là một tàu chở dầu. Một quả ngư lôi đã đánh trúng và làm vỡ mũi tàu, nhưng đối phương vẫn tiếp tục di chuyển được với vận tốc . Khi chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để tìm cách đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo, hỏa lực súng máy bắn trả từ pháo hạm Hirotama Maru đã làm bị thương bảy thủy thủ của Trout; nó buộc phải đánh chìm đối thủ bằng một quả ngư lôi tại tọa độ . Trout kết thúc chuyến tuần tra tại Fremantle vào ngày 25 tháng 2. Bắt gặp ba tàu ven biển nhỏ vào ngày 26 tháng 6, Trout đã đánh chìm hai chiếc, và sang ngày 2 tháng 7, nó tiếp tục phóng bốn quả ngư lôi đánh chìm tàu vận tải Isuzu Maru tại bờ biển phía Bắc đảo Marinduque, Philippines, tại tọa độ . Đến ngày 9 tháng 7, chiếc tàu ngầm đón năm sĩ quan Hoa Kỳ ngoài khơi bờ biển phía Nam Mindanao để đưa họ về Fremantle, đến nơi vào ngày 20 tháng 7. Trout được ghi công đã đánh chìm chiếc I-182, Trout kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 4 tháng 10. và đánh chìm tàu vận tải Sakito Maru vốn đang vận chuyển Trung đoàn Bộ binh 18, tại tọa độ . Asashimo phát hiện tín hiệu của chiếc tàu ngầm, nên đã thả 19 quả mìn sâu tấn công, và quan sát thấy vệt dầu loang cùng nhiều mảnh vỡ trồi lên mặt nước tại tọa độ .

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Trout_ (SS-202)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái
**USS _Parche_ (SS-384/AGSS-384)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá bướm Bốn mắt của chi Cá bướm. _Parche_ đã