✨USS Trepang (SS-412)
USS Trepang (SS-412/AGSS-412) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên tiếng Indonesia của loài sên biển hay hải sâm. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn.
Ban đầu được dự định đặt cái tên Senorita, theo tên một loài trong họ Cá bàng chài, nó được đổi tên thành Trepang vào ngày 24 tháng 9, 1942 và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare Island ở Vallejo, California vào ngày 25 tháng 6, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi bà Jane Andre Davenport, phu nhân Hạm trưởng tương lai, Trung tá Hải quân Roy Milton Davenport. Con tàu nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 5, 1944 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Davenport.
Lịch sử hoạt động
1944
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi San Diego, California, Trepang chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ San Diego vào ngày 15 tháng 8, 1944 để đi sang Trân Châu Cảng, Hawaii. Sang ngày 10 tháng 10, nó tấn công đoàn tàu vận tải thứ hai bao gồm hai tàu chở dầu và một tàu hộ tống. Cho dù nó tự nhận đã đánh trúng mục tiêu, tàu liệu thu được từ phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận điều này. Sang ngày hôm sau, một loạt bốn quả ngư lôi phóng ra đã phá hủy Tàu vận tải số 105 (1.000 tấn) ở phía Nam Yokosuka, tại tọa độ . Tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ tại đảo Majuro thuộc quần đảo Marshall vào ngày 23 tháng 10, nơi nó được sửa chữa cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm . 1.383 binh lính cùng 44 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu. Cùng khoảng thời gian này tàu chở hàng Banshu Maru số 31 (748 tấn) cũng trúng ngư lôi và đắm tại tọa độ ; đồng thời gây hư hại cho một tàu phòng vệ duyên hải nhỏ. Nhiều tàu săn ngầm đối phương xuất hiện buộc nó phải lặn khẩn cấp né tránh đợt phản công bằng mìn sâu, kéo dài đến bảy giờ. Vào ngày 3 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm pháo hạm Nissho Maru số 2 (1.386 tấn) ngoài khơi phía Nam Honshu gần Mijake Jima, tại tọa độ . Sang ngày 14 tháng 3, nó lại phóng ngư lôi đánh chìm pháo hạm Kaiko Maru ngoài khơi Inubosaki, tại tọa độ . Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ tại Guam. Đến ngày 28 tháng 4, lúc 14 giờ 08 phút nó phóng ngư lôi tấn công và đánh trúng tàu buôn Miho Maru hai quả phía giữa tàu khiến mục tiêu ngập nước, bị nghiêng và trôi nổi trên biển. Sau khi né tránh phản công với 27 quả mìn sâu từ ba tàu hộ tống, chiếc tàu ngầm quay lại tấn công lúc 21 giờ 30 phút, đánh chìm Miho Maru (4.667 tấn) tại vị trí khoảng về phía Tây Nam đảo Hongdo, tại tọa độ ; 14 thủy thủ, 26 pháo thủ cùng 94 hành khách đã mất tích cùng con tàu. Sang ngày 4 tháng 5, Tàu quét mìn số 20 (648 tấn) bị đánh chìm trong biển Hoàng Hải, khoảng về phía Đông Nam Mokpo, Triều Tiên, tại tọa độ . Sau đó nó chuyển sang nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho các đợt không kích của máy bay ném bom B-25 Mitchell xuống Thượng Hải, Trung Quốc và của máy bay B-29 Superfortress xuống khu vực Tokyo trước khi quay trở về Guam. Đến 12 giờ 00 ngày 24 tháng 6, nó lần lượt cứu vớt hai phi công máy bay tiêm kích P-51 Mustang gặp trục trặc khi hộ tống máy bay B-29 Superfortress ném bom xuống Tokyo, và phải nhảy dù xuống biển.< Đang khi rút lui ra vùng biển nước sâu, chiếc tàu ngầm bất ngờ bị một máy bay tuần tra đối phương thả hai quả mìn sâu tấn công, nhưng nó thoát được mà không bị hư hại. Sau khi tiếp tục nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng, và vẫn ở lại căn cứ này khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.