✨USS Sailfish (SS-192)
USS Sailfish (SS-192) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ban đầu mang tên Squalus, tên đặt theo một chi cá mập thuộc bộ Cá nhám góc,
Lớp Sargo có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 3, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Oliver F. Naquin.
Bị đắm và công tác cứu hộ
Sau khi được sửa chữa tại xưởng tàu, từ ngày 12 tháng 5, 1939, Squalus tiến hành một loạt các đợt lặn thử nghiệm ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire. Trong đợt lặn vào sáng ngày 23 tháng 5 ngoài khơi quần đảo Shoals, van nạp khí chính bị hỏng đã khiến ngập nước phòng ngư lôi phía sau, cả hai phòng động cơ và khoang nghỉ của thủy thủ, khiến 26 người bị đuối nước ngay lập tức. Phản ứng nhanh chóng của thủy thủ đoàn đã ngăn cho các khoang khác không bị ngập nước, và Squalus đắm tại tọa độ , ở độ sâu . Dưới sự hướng dẫn của nhà nghiên cứu Albert R. Behnke, các thợ lặn áp dụng quy trình lặn sử dụng hỗn hợp khí Heliox (79% Heli và 21% Oxi) để tránh hội chứng mất tri giác do lặn sâu, qua đó đã chứng minh giả thuyết nghiện nitrogen của Behnke. Các thợ lặn đã giải cứu 33 người còn lại trên tàu, bao gồm một nhân viên dân sự. Bốn thợ lặn William Badders, Orson L. Crandall, James H. McDonald và John Mihalowski được tặng thưởng Huân chương Danh dự do thành tích giải cứu này, một kết quả khả quan so với tai nạn của tàu ngầm Anh trong vịnh Liverpool chỉ một tuần sau đó.
Trục vớt và tái biên chế như là chiếc Sailfish
thumbnail|left|SS-192 trong ụ tàu sau khi được trục vớt Công việc trục vớt Squalus do Chuẩn đô đốc Cyrus W. Cole, chỉ huy trưởng Xưởng hải quân Portsmouth giám sát. Công việc do Đại úy Floyd A. Tusler thuộc Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa thực hiện, dưới sự trợ giúp của Trung tá Henry Hartley, trợ lý về kỹ thuật. Kế hoạch của Tusler dự tính sẽ nâng con tàu làm ba giai đoạn, để không nổi lên quá nhanh một đầu mất kiểm soát, nhiều khả năng sẽ chìm trở lại. Trong 50 ngày, thợ lặn buộc dây cáp bên dưới chiếc tàu ngầm và nối vào các ụ nổi. Vào ngày 13 tháng 7, 1939, phần đuôi đã nổi lên thành công, nhưng trượt khỏi dây cáp và đắm trở lại. Thêm 20 ngày chuẩn bị nữa với thiết kế lại ụ ổi và cách bố trí các sới dây cáp, trước khi Squalus được trục vớt thành công và kéo đến Xưởng hải quân Portsmouth vào ngày 13 tháng 9. Con tàu xuất biên chế vào ngày 15 tháng 11, 1939.
Lịch sử hoạt động
1940 - 1941
Sau khi công việc tái trang bị hoàn tất vào giữa tháng 9, Sailfish khởi hành từ Portsmouth vào ngày 16 tháng 1, 1941 để đi sang khu vực Thái Bình Dương. Nó băng qua kênh đào Panama và có chặng dừng tại San Diego, California để tiếp nhiên liệu trước khi đi đến Trân Châu Cảng vào đầu tháng 3. Chiếc tàu ngầm tiếp tục hướng sang Manila, Philippines, và gia nhập Hạm đội Á Châu. Chiếc tàu ngầm rút lui về Manila vào ngày 17 tháng 12. Sailfish lên đường vào ngày 21 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ hai tại biển Đông ngoài khơi Đài Loan. Vào sáng ngày 27 tháng 1, 1942, gần Davao, nó phát hiện một tàu tuần dương lớp Myōkō và đã phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công, tự nhận đã gây hư hại cho đối thủ. Tuy nhiên nó không thể xác nhận kết quả do bị hai tàu hộ tống truy đuổi, phải lặn sâu ở chế độ im lặng. Né tránh được đối phương, chiếc tàu ngầm đi về hướng Java, Đông Ấn thuộc Hà Lan, đi đến Tjilatjap vào ngày 14 tháng 2, nơi nó được tái trang bị và tiếp nhiên liệu. dù sao vẫn là một mục tiêu có giá trị. Tuy nhiên Aobasan Maru cố lếch về đến Cape Saint Jacques và sau đó được sửa chữa tại Công xưởng hải quân Sài Gòn. và phóng một loạt bốn quả ngư lôi phía mũi từ khoảng cách . Nó ghi được hai quả trúng đích, rồi phải lặn sâu để né tránh phản công từ các tàu khu trục, vốn đã thả xuống 21 quả mìn sâu. Khi trở lên mặt nước lúc khoảng 02 giờ 00, nó phát hiện các mục tiêu di chuyển chậm qua radar, nhưng gặp khó khăn do tầm nhìn kém. Lúc gần sáng, nó phóng thêm ba quả ngư lôi phía mũi nhắm vào chiếc tàu sân bay từ khoảng cách , ghi thêm hai quả trúng đích, rồi lại phải lặn xuống để né tránh phản công. Khoảng 1.250 thủy thủ, binh lính và hành khách Nhật Bản cũng đã thiệt mạng khi Chūyō bị đắm. những nỗ lực vận động của thành phố Portsmouth, New Hampshire nhằm giữ cho Sailfish nguyên vẹn như một đài tưởng niệm đã không thành công. Tuy nhiên tháp chỉ huy của con tàu được thỏa thuận giữ lại, và được Bộ trưởng Hải quân John L. Sullivan khánh thành như một đài tưởng niệm tại Xưởng hài quân Portsmouth vào tháng 11, 1946, nhân ngày Đình chiến.
Phần còn lại của chiếc tàu ngầm thoạt tiên dự định sử dụng như mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử hay đánh chìm bằng vũ khí thông thường, nhưng cuối cùng được đưa vào danh sách loại bỏ vào tháng 3, 1948 và xóa tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 30 tháng 4, 1948.