✨USS Richard M. Rowell (DE-403)

USS Richard M. Rowell (DE-403)

USS Richard M. Rowell (DE-403) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Richard Merrill Rowell (1916–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Tiêm kích VF-2 trên tàu sân bay , đã mất tích trong Trận chiến biển Coral vào ngày 8 tháng 5, 1942 và được truy tặng Huân chương Chữ thập bay Dũng cảm.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda và sửa chữa sau chạy thử máy, Richard M. Rowell chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ Boston, Massachusetts vào ngày 6 tháng 5, 1944, băng qua kênh đào Panama và San Diego, California để đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 31 tháng 5. Sau một giai đoạn huấn luyện, đến tháng 7, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Eniwetok, rồi bảo vệ các tàu sân bay hộ tống quay trở lại Trân Châu Cảng. Sang tháng 8, nó lại hộ tống một đoàn tàu vận chuyển đi sang Tulagi thuộc quần đảo Solomon, rồi hộ tống các tàu sân bay hộ tống đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty. Đến tháng 9, nó hộ tống một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên đảo Morotai, Đông Ấn thuộc Hà Lan vào ngày 15 tháng 9, nơi nó giải cứu hai phi công bị rơi xuống biển. nhưng không biết Seawolf đã tạm thời bị gián đoạn liên lạc, nên tin rằng đây là tàu ngầm đối phương và truy lùng mục tiêu bằng sonar. Do tín hiệu hồi đáp từ mục tiêu không khớp với mã nhận dạng bạn-thù và được cho là để gây nhiễu sonar, chiếc tàu hộ tống khu trục đã tấn công với hai loạt súng cối chống ngầm Hedgehog, loạt thứ hai gây ra những vụ nổ dưới nước và nhiều mảnh vỡ trồi lên mặt biển. Nghiên cứu tài liệu của Hải quân Nhật Bản sau chiến tranh không thấy cuộc tấn công nào có thể khiến Seawolf bị mất. Có thể chiếc tàu ngầm đắm do tai nạn vận hành hoặc một cuộc tấn công của đối phương không được ghi chép, nhiều khả năng nó đắm do cuộc tấn công nhầm của Richard M. Rowell, là chiếc tàu ngầm thứ nhì sau chiếc tại vùng biển Caribe bị mất do hỏa lực bắn nhầm.

Sau đó, Richard M. Rowell tháp tùng để bảo vệ các tàu sân bay hộ tống hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Leyte, Philippines vào ngày 20 tháng 10. Đến ngày 23 tháng 10, nó đã đánh chìm tàu ngầm Nhật Bản I-54.

Trong quá trình Trận chiến ngoài khơi Samar diễn ra vào ngày 25 tháng 10, Richard M. Rowell hoạt động cùng Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.1 (mã gọi vô tuyến Taffy 1), ở cách Taffy 3 (Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3) về phía Nam, vốn trở thành mục tiêu của Lực lượng Trung tâm Nhật Bản. Taffy 1 đang tung máy bay ra truy tìm hạm đội Nhật Bản đang rút lui sau Trận chiến eo biển Surigao, khi đến 07 giờ 40 phút đã phải chịu đựng những đợt tấn công tự sát của sáu máy bay Kamikaze đối phương xuất phát từ Davao; Richard M. Rowell đã giúp cứu vớt một người sống sót từ tàu sân bay hộ tống . Nó còn phải chống trả một đợt tấn công Kamikaze khác vào ngày 26 tháng 10, và cùng với tàu sân bay trợ giúp y tế cho những người bị thương trên tàu sân bay . Sang ngày 27 tháng 10, nó hộ tống cho Santee rút lui về Manus và sau đó về đến Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 11.

Khi quay trở lại khu vực quần đảo Philippine, Richard M. Rowell hoạt động tuần tra chống tàu ngầm và phòng không hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen, Luzon vào ngày 9 tháng 1, 1945. Sau khi bảo vệ cho các đội phá hoại dưới nước (UDT: Underwater Demolition Team) thực hành tại Ulithi vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2, nó hộ tống các tàu vận chuyển đi đến Iwo Jima, và hộ tống cho các tàu sân bay hỗ trợ cho cuộc đổ bộ tại đây vào ngày 19 tháng 2. Rời Ulithi vào ngày 21 tháng 3, nó lại hộ tống cho các tàu sân bay hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa vào ngày 1 tháng 4 trước khi quay trở về Guam vào ngày 11 tháng 5. Sang tháng 7, con tàu tuần tra tại vịnh Leyte, Philippines, rồi hộ tống tàu sân bay đi sang Ulithi và hộ tống ba tàu vận tải đi đến vịnh San Pedro, Philippines trong tháng 8.

Sau khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Richard M. Rowell tiếp tục tuần tra tại vịnh Leyte và Okinawa trong tháng 9, trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Eniwetok và Trân Châu Cảng. Nó về đến vào ngày 6 tháng 11, được cho xuất biên chế vào ngày 2 tháng 7, 1946 và đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 30 tháng 6, 1968, và con tàu bị bán để tháo dỡ vào tháng 6, 1969.

Phần thưởng

Richard M. Rowell được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Richard M. Rowell_ (DE-403)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu