✨USS Mapiro (SS-376)
USS Mapiro (SS-376) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ cá bống dừa. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn.
Mapiro được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Manitowoc Shipbuilding Company ở Manitowoc, Wisconsin vào ngày 30 tháng 5, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 9 tháng 11, 1944, được đỡ đầu bởi bà Philip H. Ross, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 4, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Vincent Ambrose Sisler, Jr.
Lịch sử hoạt động
USS Mapiro
Sau khi hoàn tất việc thử nghiệm tại hồ Michigan, Mapiro được đưa lên một ụ nổi tại Lockport, Illinois, và được kéo đi băng qua sông Chicago và dọc theo sông Mississippi, đi đến New Orleans, Louisiana. Nó khởi hành vào ngày 31 tháng 5, 1945 để đi sang vùng kênh đào Panama, đi đến Balboa, Panama vào ngày 5 tháng 6, nơi nó tiếp tục được huấn luyện cho đến ngày 28 tháng 6. Nó cùng với tàu ngầm lên đường hướng sang khu vực Thái Bình Dương, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 7.
Khởi hành vào ngày 4 tháng 8 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh, Mapiro hướng sang khu vực quần đảo Mariana, nhưng chỉ đi đến vào đúng ngày 15 tháng 8, khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó tiếp tục hoạt động tuần tra trinh sát cho đến khi được lệnh quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Francisco vào ngày 25 tháng 9. Con tàu đi vào Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 16 tháng 3, 1946, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 1, 1947 và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.
TCG Pirireis (S-343)
Vào năm 1960, Mapiro được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY), giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Đến ngày 18 tháng 3, trong khuôn khổ Chương trình viện trợ quân sự, nó được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ và phục vụ cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ như là chiếc TCG Pirireis (S-343), trở thành chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Piri Reis (khoảng 1465–1554), Đô đốc Đế quốc Ottoman và là một người vẽ bản đồ nổi bật.
Cùng với thủy thủ đoàn người Thổ Nhĩ Kỳ, Pirireis rời San Francisco vào ngày 16 tháng 5, 1960 để đi Istanbul ngang qua kênh đào Panama, về đến căn cứ Gölcük vào ngày 23 tháng 6. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày hôm sau, và hoạt động cho đến khi rút biên chế vào năm 1973. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ và chuyển sở hữu cho Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 1 tháng 8, 1973; con tàu bị tháo dỡ vào năm 1980.
Phần thưởng
:Nguồn: Navsource Naval History