✨USS De Haven (DD-727)
USS De Haven (DD-727), là một tàu khu trục lớp Allen M. Sumner được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Đại úy Hải quân Edwin J. De Haven (1819–1865), sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ và là nhà thám hiểm. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, và tiếp tục phục vụ sau đó trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam cho đến năm 1973. Con tàu được chuyển cho Hàn Quốc và tiếp tục hoạt động như là chiếc Incheon (DD-98/DD-918) cho đến khi ngừng hoạt động năm 1993 và bị tháo dỡ. De Haven được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II; danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân cùng sáu Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên; và danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân lần thứ hai cùng ba Huân chương Quân đội Viễn chinh trong Chiến tranh Việt Nam.
Thiết kế và chế tạo
De Haven được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Federal [[Bath Iron Works Corp. ở Bath, Maine vào ngày 9 tháng 8 năm 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 9 tháng 1 năm 1944; được đỡ đầu bởi cô H. N. De Haven, và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 3 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân John B. Dimmick.
Lịch sử hoạt động
1944
De Haven hộ tống cho tàu sân bay trong hành trình từ Norfolk, Virginia đi sang Thái Bình Dương, đi đến Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii vào ngày 3 tháng 8 năm 1944. Nó sau đó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Eniwetok từ ngày 16 đến ngày 30 tháng 8, rồi lại đi đến Eniwetok vào ngày 5 tháng 10. Con tàu khởi hành một tuần sau đó để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 38 tại Ulithi, rồi hoạt động từ căn cứ này hộ tống cho các tàu sân bay nhanh tiến hành không kích xuống Luzon, Philippines, hỗ trợ cho cuộc cuộc tấn công lên đảo Leyte trong tháng 11 và tháng 12. Để phối hợp với cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen, Luzon, lực lượng đặc nhiệm đã tấn công xuống Đài Loan, Luzon, vịnh Cam Ranh, Hong Kong, đảo Hải Nam và Okinawa trong một loạt chiến dịch không kích kéo dài từ ngày 30 tháng 12 năm 1944 đến ngày 26 tháng 1 năm 1945.
De Haven tiếp tục luân phiên những lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương với các hoạt động tại chỗ dọc theo vùng bờ Tây, đã thực hiện sáu chuyến đi đến Viễn Đông từ năm 1953 đến năm 1959. Nó tham gia chiến dịch Hardtack I gần đảo Eniwetok vào mùa Hè năm 1958, chứng kiến khoảng 22 vụ nổ thử nghệm hạt nhân, trong đó một vụ chỉ ở khoảng cách ba hải lý. Nó cũng là một trong số tàu chiến can thiệp vào vụ quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phong tỏa và bắn phá các đảo Kim Môn và Mã Tổ còn do phía Trung Hoa dân quốc kiểm soát. Từ ngày 1 tháng 2, 1960, con tàu được nâng cấp cảm biến và vũ khí chống ngầm tại San Francisco trong khuôn khổ Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM: Fleet Rehabilititation and Modernization), và sau khi hoàn tất vào tháng 9, nó quay trở lại hoạt động huấn luyện thường lệ cho đến hết năm 1960. Nó thực hiện chuyến tuần tra đầu tiên từ ngày 14 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4, 1962 tại một điểm tập trung chung quanh khu vực Thanh Đảo thuộc Hoàng Hải. Con tàu nhận được chỉ thị không xâm phạm phần lãnh thổ do phía Trung Cộng kiểm soát, bao gồm các đảo ngoài khơi trong phạm vi gần hơn 10 hải lý.
Những chuyến tuần tra này là nhằm đáp trả lại tuyên bố của Trung Cộng xác định lại vùng lãnh hải của họ bao gồm cả vùng biển có bán kính chung quanh bờ biển các đảo ngoài khơi, làm mở rộng đáng kể vùng biển lãnh hải của họ. Những tuyên bố này mâu thuẫn với thông lệ về thông thương hàng hải theo luật quốc tế, và làm gia tăng khả năng và tần suất đối đầu và xung đột, những "phản đối ngoại giao nghiêm trọng" do chính phủ Bắc Kinh đưa ra mỗi khi tàu chiến thuộc Đệ Thất hạm đội di chuyển ngang những vùng biển này. Đây là một tình huống mà Tư lệnh Đệ Thất hạm đội cảm thấy cần đáp trả thích ứng.