✨USS Camp (DE-251)

USS Camp (DE-251)

USS Camp (DE-251/DER-251) là một tàu hộ tống khu trục lớp Edsall từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Jack Hill Camp (1916-1942), phi công phục vụ cùng Liên đội Tuần tra 44 hoạt động tại Midway, tham gia trận Midway và bị tử thương vào ngày 7 tháng 6, 1942.

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 , và được trang bị radar SC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.

Camp được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Brown Shipbuilding, ở Houston, Texas vào ngày 27 tháng 1, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 4, 1943, được đỡ đầu bởi bà O. H. Camp, mẹ Thiếu úy Camp, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 9, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Tuần duyên Preston Baker Mavor.

Lịch sử hoạt động

USS Camp

Thế Chiến II

Trình diện để phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương với một thủy thủ đoàn là nhân sự của Tuần duyên Hoa Kỳ, Camp hoạt động như tàu huấn luyện cho thủy thủ đoàn các tàu hộ tống khu trục trong tương lai. Nó khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 14 tháng 12, 1943 để hộ tống một đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương để đi sang Casablanca, Maroc thuộc Pháp, trong giai đoạn phe Đồng Minh đang tập trung lực lượng và phương tiện chuẩn bị cho việc đổ bộ lên Ý. Con tàu quay trở về Norfolk vào ngày 24 tháng 1, 1944, và trong suốt một năm rưỡi tiếp theo đã tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải từ New York đến các cảng Anh.

Chiến tranh Việt Nam

Vào năm 1965, sau khi dàn ăn-ten radar lớn được tháo dỡ, Camp được phái sang vùng biển Việt Nam và tham gia vào Chiến dịch Market Time nhằm ngăn chặn việc vận chuyển vũ khí và tiếp liệu từ Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Có mặt tại cửa sông Trà Khúc, Quảng Ngãi vào đêm 7 tháng 8, 1967, nó bắn pháo sáng hỗ trợ cho Căn cứ Giang đoàn 16 trên sông Trà Khúc chống trả lại sự tấn công của đối phương, phái các xuồng tuần tra sông cao tốc đi đến hỗ trợ hỏa lực cho trận chiến, và đến sáng hôm đó đã giúp vận chuyển 15 người bị thương sang máy bay trực thăng để đưa đến Bệnh viện Dã chiến 1 tại Quảng Ngãi, cũng như giúp di tản 25 người khác đến Chu Lai.

Được điều sang hoạt động tuần tra tại eo biển Đài Loan vào cuối tháng 9, 1967, Camp đi đến Cao Hùng để thay phiên cho tàu khu trục hộ tống . Nó buộc phải di chuyển hết tốc độ lên phía Bắc để né tránh cơn bão Carla. Chịu đựng những cơn sóng cao và sức gió lên đến liên tục trong nhiều ngày, con tàu bị hư hại nặng tháp pháo phía mũi và bị mất radar điều khiển hỏa lực. Khi cơn bão chấm dứt con tàu chuyển hướng đến Sasebo, Nhật Bản để sửa chữa trong ụ tàu. Tháp pháo kín phía đuôi được chuyển đến vị trí mũi tàu, trong khi tháp pháo đuôi được thay bằng một bệ pháo mở tháo dỡ từ một con tàu đã xuất biên chế.

Sau khi được sửa chữa, Camp quay trở lại hoạt động ngoài khơi Việt Nam, tham gia các nhiệm vụ bao gồm việc hộ tống cho thiết giáp hạm . Vào năm 1968 trung tâm liên lạc vô tuyến của nó được nâng cấp nhiều lần để cải thiện hiệu quả liên lạc, cho phép nó chuyển tiếp liên lạc đa kênh đồng thời đến nữa vòng trái đất. Con tàu tiếp tục đảm nhiệm vai trò hỗ trợ hải pháo cho lực lượng trên bộ theo yêu cầu, phục vụ như "tàu mẹ" cho các xuồng tuần tra sông cao tốc, và hoạt động như tàu căn cứ tại Hong Kong phục vụ cho mọi con tàu đang hoạt động tại khu vực Đông Nam Á.

Từ ngày 22 tháng 1 đến ngày 15 tháng 4, 1969, Camp đã tham gia vào các cảnh quay của bộ phim Tora! Tora! Tora!, mô tả hoạt động của tàu khu trục trong đoạn tuần tra, bắn hải pháo và thả mìn sâu tại lối ra vào Trân Châu Cảng; những cảnh bên trong chiếc Ward được quay trên chiếc đã xuất biên chế.

Trần Hưng Đạo (HQ-1)

Camp được chuyển giao cho Việt Nam Cộng hòa vào ngày 13 tháng 2, 1971, và phục vụ cùng Hải quân Việt Nam Cộng hòa như là chiếc Trần Hưng Đạo (HQ-1), Camp được cho rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân của Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 12, 1975.

BRP Rajah Lakandula (PF-4)

Con tàu được chính thức chuyển giao cho Philippines vào ngày 5 tháng 4, 1976, và nhập biên chế cùng Hải quân Philippines vào ngày 27 tháng 7, 1976 như là chiếc RPS Rajah Lakandula (PS-4). Nó là chiếc tàu chiến lớn nhất của Philippines vào lúc đó. Đến tháng 7, 1980, nó được xếp lại lớp với ký hiệu lườn PF-4, rồi tiếp tục phục vụ cho đến khi rút biên chế và xóa đăng bạ vào năm 1988. , con tàu vẫn được sử dụng như một tàu trại binh tại vịnh Subic; số phận hiện tại của con tàu không rõ, có thể đã bị tháo dỡ.

Phần thưởng

Camp được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Camp_ (DE-251/DER-251)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Edsall_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
{| |+RVNS _Trần Hưng Đạo_ (HQ-1) **RVNS _Trần Hưng Đạo_ (HQ-1)** là một trong những tàu chiến lớn nhất của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. ## Hải quân Hoa Kỳ **USS Camp** là tên