✨Upādāna

Upādāna

Upādāna (Thủ) là một từ trong tiếng Phạn và tiếng Pali với nghĩa "nhiên liệu, nguyên nhân vật chất, chất nền mà nó là nguồn và phương thức của việc giữ cho một quá trình đang hoạt động được tiếp thêm năng lượng". Nó cũng là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo chỉ cho "sự quyến luyến, sự bám chặt, sự giữ chặt". Thủ được xem như là kết quả của Ái (taṇhā), và là một phần trong Khổ đế (dukkha) của đạo Phật.

Ấn độ giáo

Thuật ngữ Upādāna xuất hiện theo nghĩa "nguyên nhân thực chất" trong các văn bản Vệ-đà cổ và Ấn độ giáo trung đại.

Phật giáo

Upādāna là từ trong tiếng Phạn và tiếng Pali với nghĩa "sự quyến luyến, sự bám chặt, sự giữ chặt", mặc dù theo nghĩa đen thì nó có nghĩa là "nhiên liệu". Thủ và Ái được xem là hai nguyên nhân chính gây ra sự đau khổ. Sự đoạn diệt Thủ sẽ dẫn đến niết bàn.

Các loại Thủ

Trong Kinh tạng, đức Phật cho rằng có tất cả bốn loại Thủ: *Dục* thủ (kamupadana) Kiến thủ (ditthupadana) Giới cấm thủ (silabbatupadana) Ngã luận** thủ (attavadupadana). Đức Phật một lần đã nói rằng, trong khi các giáo phái khác có thể đưa ra một cách phân tích thích hợp cho ba loại Thủ đầu tiên, ngài một mình đã giải thích rõ ràng và đầy đủ về Thủ của "ngã" và sự đau khổ theo sau của nó.

Thắng pháp và các tiểu luận của nó cung cấp các định nghĩa sau đây cho bốn loại Thủ:

dục thủ: sự bám chặt những thứ trên thế giới một cách lặp đi lặp lại

kiến thủ: như là quan điểm thường hằng (cụ thể, "Thế giới và ngã là vĩnh cửu") hoặc là quan điểm đoạn diệt.

giới cấm thủ: tin vào việc chỉ dựa vào những lễ nghi thì có thể trực tiếp dẫn đến sự giải thoát, điển hình theo kinh điển là các lễ nghi của "thực hành hạnh con bò" hay "thực hành hạnh con chó".

ngã luận thủ: sự xác định "ngã" cho những thứ vô ngã (cụ thể, được minh họa trong MN 44, và được thảo luận nhiều hơn trong các bài về uẩn và vô ngã).

Theo ngài Phật Âm, thứ tự sắp xếp ở trên của bốn loại Thủ là theo xu hướng giảm dần về sự thô. Đó là từ cái Thủ dễ thấy (thô) nhất (dục thủ) cho đến cái vi tế (ngã luận thủ) nhất.

Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các Thủ

Ngài Phật Âm chỉ ra xa hơn nữa rằng bốn loại thủ này đều có liên kết nhân quả với nhau như sau:

Thứ tự về các loại Thủ được trình bày theo sơ đồ ở bên phải.

Vậy nên, dựa trên phân tích của ngài Phật Âm, Thủ là một niềm tin cốt lõi sai lầm mang tính cơ bản (ngã luận thủ) hơn là một kinh nghiệm bị ảnh hưởng theo thói quen (dục thủ).

Những biểu hiện của Thủ

Theo nghĩa những trải nghiệm về tâm trí có thể biết được với ý thức, Thắng pháp xác định dục thủ với tâm sở "tham" (lobha) và ba loại thủ còn lại (ngã luận thủ, kiến thủ, giới cấm thủ) với tâm sở "tà kiến" (ditthi). Vậy nên, Thủ có thể được nhận biết thông qua các định nghĩa 4-nhánh của thắng pháp về những tâm sở như được miêu tả trong bảng sau:

Để phân biệt giữa Ái và Thủ, ngài Phật Âm dùng một ẩn dụ như sau: :"Ái là sự cảm hứng từ một đối tượng mà người đó vẫn chưa thể với tới, giống như một người ăn trộm đang kéo dài tay ra trong bóng tối; Thủ là sự nắm bắt một đối tượng mà người đó đã chạm tới, cũng giống như là người ăn trộm đang nắm chặt món đồ của hắn.... Cả hai đều là gốc rễ của sự đau khổ do sự tìm kiếm và sự canh giữ." Vậy nên, ví dụ như, khi đức Phật nói về việc "Thủ của các uẩn," ngài đang miêu tả về sự nắm chặt, sự canh giữ các kinh nghiệm có tính vật lý, có tính tinh thần và có tính ý thức mà chúng ta đã tin một cách sai lầm rằng chúng ta là chúng, hay chúng ta sở hữu chúng.

Như là phần của chuỗi nhân quả trong Khổ đế

Trong Tứ diệu đế, diệu đế đầu tiên xác định rằng sự bám chặt (thủ, theo nghĩa "các thủ uẩn") như là một trong những trải nghiệm cốt lõi về sự khổ. Diệu đế thứ hai xác định Ái (tanha) như là cơ sở cho sự khổ. Theo cách này, một mối liên hệ nhân quả giữa Ái và Thủ được tìm thấy trong hầu hết tư tưởng cơ bản nhất của đức Phật.

Trong chuỗi liên kết 12 nhân duyên của thuyết Duyên khởi (Pratītyasamutpāda), thủ (upādāna) là liên kết nhân quả thứ chín:

*Thủ (Upādāna) phụ thuộc vào Ái () như là một điều kiện trước khi nói có thể tồn tại. :"Với Ái có mặt, Thủ sinh khởi".

*Thủ (Upādāna) cũng là điều kiện phổ biến cho điều kiện tiếp theo trong chuỗi, Hữu (Bhava). :"Với Thủ có mặt, Hữu sinh khởi."

Theo ngài Phật Âm, dục thủ chính là cái sinh ra từ Ái và là điều kiện cần thiết cho Hữu.

Thủ như là nhiên liệu

Giáo sư Richard F. Gombrich đã chỉ ra trong một vài ấn bản rằng nghĩa đen của upādāna là "nhiên liệu". Ông dùng cách dịch này để liên kết thuật ngữ mà đức Phật dùng lửa như là một ẩn dụ. Trong bài kinh Bài kinh về lửa (Āditta-pariyāya) (Vin I, 34-5; SN 35.28), đức Phật đã nói với các vị Tì kheo rằng mọi thứ đều đang cháy. Đức Phật nói mọi thứ tức nghĩa là năm giác quan cộng với tâm trí, đối tượng của chúng và các thức hoạt động và các cảm giác mà chúng phát sinh - cụ thể, mọi thứ có nghĩa là toàn bộ mọi thứ của kinh nghiệm/ trải nghiệm. Tất cả những cái này đang bị cháy với ngọn lửa của tham, sân hận và si mê.

Trong chuỗi liên kết 12 nhân duyên, khi đó Ái tạo ra nhiên liệu cho sự cháy được duy trì hoặc là Hữu (bhava). Tâm trí như là ngọn lửa, tìm thêm nhiều nhiên liệu nữa để duy trì nó, trong trường hợp của tâm trí đây là trải nghiệm về giác quan, vậy nên sự nhấn mạnh của đức Phật còn ở chỗ "canh gác các cánh cổng của giác quan". Bằng cách không bị dính líu trong các giác quan (appamāda) chúng ta có thể giải thoát khỏi sự tham lam, sự sân hận hay là sự si mê. Sự giải thoát này cũng được biểu hiện bằng ẩn dụ về lửa khi nó được đặt tên là niết bàn mà nó có nghĩa là "ra khỏi", hoặc theo nghĩa đen là "dập tắt". (Chỉ cho từ Niết bàn (__), động từ vā là một nội động từ nên không cần tân ngữ).

Có lẽ trước thời gian mà tạng kinh được bắt đầu viết (thế kỉ 1 TCN), và một cách chắc chắn khi ngài Phật Âm đã viết những tiểu luận của ngài ấy (thế kỉ 4 sau công nguyên) thì nghĩa ẩn dụ của nó đã biến mất, và upādāna trở thành đơn giản là Thủ như ở trên. Trước thời gian của Đại thừa, thuật ngữ lửa đã bị đánh mất và tham, sân và si được biết đến như là "tam độc".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Upādāna_** (Thủ) là một từ trong tiếng Phạn và tiếng Pali với nghĩa "nhiên liệu, nguyên nhân vật chất, chất nền mà nó là nguồn và phương thức của việc giữ cho một quá trình
**_Oecetis upadana_** là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.
**_Vijñāna_** (tiếng Phạn) hay **_viññāṇa_** (tiếng Pali) thường được dịch là **thức**, tiềm thức, lực cuộc sống, tâm trí hoặc khả năng phán đoán tốt. ## Ấn độ giáo ## Phật giáo Trong Phật giáo,
**Long Thụ**, còn gọi là **Long Thọ** (zh. 龍樹; sa. _nāgārjuna_ नागार्जुन; bo. _klu sgrub_ ཀླུ་སྒྲུབ་), dịch âm là **Na-già-át-thụ-na** (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1–2, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của
thumb|Tác phẩm "Bánh xe luân hồi" (Bhavachakra) tại tu viện Sera, Tây Tạng. **Hữu luân** (zh. 有輪, sa. _bhava-cakra_, pi. _bhavacakka_) là vòng sinh tử, là bánh xe của sự tồn tại, chỉ cái luân
**_Paṭiccasamuppāda_** (; paṭiccasamuppāda), thường được dịch là **khởi nguồn có tính phụ thuộc**, hoặc còn gọi là **duyên khởi** (zh. 縁起, sa. _pratītyasamutpāda_, pi. _paṭiccasamuppāda_, bo. _rten cing `brel bar `byung ba_ རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བ་), cũng được
nhỏ|phải|[[Ghen tuông là biểu hiện cực đoan của tâm lý gắn bó lo âu]] **Gắn bó lo âu** (_Anxious-preoccupied attachment_) là một trong những kiểu gắn bó không an toàn, được phát triển từ lý