✨U-601 (tàu ngầm Đức)

U-601 (tàu ngầm Đức)

U-601 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười chuyến tuần tra, đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-601 bị một thủy phi cơ PBY Catalina của Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm trong biển Bắc Cực vào ngày 25 tháng 2, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-601 được đặt hàng vào ngày 22 tháng 5, 1940, Đến ngày 1 tháng 8, U-601 phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Liên Xô Krest’janin ở vị trí cách đảo Mezhdysharskiy về phía Tây. Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Kirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày 3 tháng 8. Chỉ tám ngày sau đó, 25 tháng 2, nó bị một thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Liên đội 210 Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm ở vị trí về phía Tây Narvik, tại tọa độ . Toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn của U-601 đều đã tử trận.

"Bầy sói" tham gia

U-601 từng tham gia năm bầy sói:

  • Boreas (19 tháng 11 – 6 tháng 12, 1942)
  • Wiking (20 tháng 9 – 3 tháng 10, 1943)
  • Eisenbart (19 tháng 12, 1943 – 5 tháng 1, 1944)
  • Isegrim (16 – 27 tháng 1, 1944)
  • Werwolf (27 tháng 1 – 1 tháng 2, 1944)

Tóm tắt chiến công

U-601 đã đánh chìm được bốn tàu buôn tổng tải trọng và hai tàu chiến tổng tải trọng 22.947 tấn, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn khác:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-601_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Tàu ngầm Klasse XXIII** "Elektroboot" là loại tàu ngầm ven bờ (coastal submarine) được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển như: Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải, nơi mà
**USS _Champlin_ (DD-601)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Walsh_ (APD-111)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-601**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Linz** (; ; ) là thành phố thủ phủ của Thượng Áo và là thành phố lớn thứ ba ở Áo. Nó nằm ở phía bắc đất nước Áo, trên sông Danube cách biên giới
**Edward VI của Anh** (tiếng Anh: _Edward VI of England_; tiếng Pháp: _Édouar VI d'Angleterre_; tiếng Tây Ban Nha: _Eduardo VI de Inglaterra_; 12 tháng 10 năm 1537 – 6 tháng 7 năm 1553) là
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Gloster Meteor** là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Anh, và cũng là máy bay phản lực đầu tiên và duy nhất của quân Đồng minh hoạt động trong Chiến tranh