✨U-438 (tàu ngầm Đức)
U-438 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra, đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-438 bị tàu sà lúp của Hải quân Hoàng gia Anh đánh chìm trong Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Bắc Newfoundland vào ngày 6 tháng 5, 1943.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-438 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1941, Vào ngày 10 tháng 8, nó phối hợp cùng tàu ngầm U-660 phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu SC-94 ở vị trí về phía Nam Iceland, đánh chìm các tàu buôn Hy Lạp Condylis tại tọa độ , và tàu buôn Anh Oregon tại tọa độ .
Từ ngày 22 tháng 8, U-438 phát hiện và theo dõi Đoàn tàu ON 122 cho đến ngày 25 tháng 8, khi nó phóng ngư lôi tấn công, đánh chìm được tàu buôn Na Uy Trolla tại tọa độ . Vài giờ sau đó, lúc đang di chuyển trên mặt nước, chiếc tàu ngầm bị tàu corvette Na Uy HNoMS Eglantine phát hiện qua radar, và bị tấn công bằng hải pháo và sau đó bằng mìn sâu. U-438 phải lặn khẩn cấp để né tránh, nhưng sau đó buộc phải trồi lên mặt nước sau khi khoang phía mũi bị ngập nước. Chiếc U-boat không thể lặn, nhưng lẫn tránh và thoát được nhờ sương mù dày đặc. Ở vị trí khoảng về phía Đông đảo Belle, Newfoundland vào ngày 2 tháng 11, nó đã tấn công Đoàn tàu SC-107 và phóng ngư lôi tấn công chiếc tàu buôn Anh Hartington . Vốn trước đó đã trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-522, Hartington chỉ bị hư hại thêm mà không chìm, cho đến khi bị tàu ngầm U-521 phóng ngư lôi kết liễu hai giờ sau đó. U-438 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Brest vào ngày 19 tháng 11.
Chuyến tuần tra thứ tư – Bị mất
Thay thế cho Đại úy Hạm trưởng Rudolf Franzius mắc bệnh, Thiếu tá Hải quân Heinrich Heinsohn, nguyên hạm trưởng tàu ngầm U-573, tiếp nhận quyền chỉ huy U-438 từ ngày 31 tháng 3. Vào ngày 4 tháng 5, chiếc tàu ngầm bị một thủy phi cơ PBY Catalina thuộc Liên đội 5 Không quân Hoàng gia Anh tấn công ở vị trí khoảng về phía Nam Greenland; hỏa lực phòng không của con tàu đã chống trả, và nó bị hư hại nhẹ. Hai ngày sau đó, tàu sà lúp của Hải quân Hoàng gia Anh đã thả mìn sâu tấn công, đánh chìm U-438 ở vị trí về phía Đông Bắc Newfoundland, tại tọa độ . Toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn của U-438 đều đã tử trận.
"Bầy sói" tham gia
U-438 từng tham gia mười bầy sói:
- Lohs (11 – 25 tháng 8, 1942)
- Tümmler (6 – 9 tháng 10, 1942)
- Panther (13 – 20 tháng 10, 1942)
- Veilchen (20 tháng 10 – 5 tháng 11, 1942)
- Habicht (11 – 19 tháng 1, 1943)
- Haudegen (19 tháng 1 – 8 tháng 2, 1943)
- Adler (11 – 13 tháng 4, 1943)
- Meise (13 – 22 tháng 4, 1943)
- Specht (22 tháng 4 – 4 tháng 5, 1943)
- Fink (4 – 6 tháng 5, 1943)
Tóm tắt chiến công
U-438 đã đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng :