✨Từ Ôn
Từ Ôn (, 862-20 tháng 11 năm 927), tên tự Đôn Mỹ (敦美), gọi theo thụy hiệu là Tề Trung Vũ Vương (齊忠武王), sau được Từ Tri Cáo truy thụy hiệu Vũ hoàng đế và miếu hiệu Nghĩa Tổ (義祖), là một đại tướng và người phụ chính của nước Ngô thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông liên kết với Trương Hạo để ám sát Hoằng Nông vương Dương Ác và sau đó lại giết Trương Hạo, đoạt lấy quyền lực của Hoằng Nông (tức Ngô). Ông vẫn là người nắm giữ việc quân chính trên thực tế trong thời gian trị vì của Dương Long Diễn và đầu thời gian trị vì của Dương Phổ. Sau khi ông qua đời, con nuôi của ông là Từ Tri Cáo kế nhiệm ông trong việc cai quản Ngô, người này sau đó soán vị và lập ra nước Nam Đường.
Thân thế
Từ Ôn sinh năm 862, dưới triều đại của Đường Ý Tông. Ông là người Cù Sơn, Hải châu. Khi còn trẻ, ông làm nghề buôn lậu muối (triều Đường giữ độc quyền buôn bán muối). Sau đó, ông trở thành một sĩ quan dưới quyền Lư châu thứ sử Dương Hành Mật. giữa Dương Hành Mật và Tôn Nho, Dương Hành Mật chiếm được Tuyên châu sau một thời gian bao vây. Theo ghi chép, chư tướng đều tranh nhau vàng và lụa, độc có Từ Ôn chiếm cứ vựa thóc, nấu cháo rồi phát cho những người bị đói ở Tuyên châu.
Năm 895, Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật chiếm được Hào châu, các binh sĩ bắt được một đứa trẻ 8 tuổi (âm), Dương Hành Mật thoạt đầu đem về nhà nuôi dưỡng như con. Tuy nhiên, trưởng tử của Dương Hành Mật là Dương Ác lại ghét đứa trẻ này, do vậy Dương Ác quyết định trao lại đứa bé cho Từ Ôn; Từ Ôn đặt tên cho đứa trẻ là Từ Tri Cáo và giao đứa trẻ cho nhị phu nhân là Lý thị nuôi dưỡng. Từ Tri Cáo được mô tả là cần hiếu, Từ Ôn yêu mến người con nuôi này. tiết độ sứ Chu Toàn Trung. Khi đó, hầu hết các tướng lại đều chủ trương dùng cự hạm để vận lương, song Từ Ôn phản đối và chỉ ra rằng các kênh đào bị ứ đọng trong một thời gian dài và cự hạm sẽ khó đi qua; và ông chủ trương dùng tiểu đĩnh để vận lương. Tuy nhiên, ý kiến của ông không được lắng nghe, và sau đó quả nhiên quân Hoài Nam bị cản trở do cự hạm chở lương thực lớn không tới được (trong khi các tiểu đĩnh thì đi qua được) và buộc phải triệt thoái, từ đó Dương Hành Mật xem trọng Từ Ôn và bắt đầu cho ông cùng nghị quân sự.
Năm 903, Dương Hành Mật phải đối diện với cuộc nổi dậy của chư hầu là Ninh Quốc tiết độ sứ Điền Quân và Nhuận châu đoàn luyện sứ An Nhân Nghĩa (安仁義). Thoạt đầu, Dương Hành Mật khiển Vương Mậu Chương (王茂章) đem quân tiến công An Nhân Nghĩa, song Vương Mậu Chương không thể giành được thắng lợi. Dương Hành Mật lại khiển Từ Ôn đem binh đến tăng viện cho Vương Mậu Chương. Từ Ôn lệnh cho binh sĩ đổi y phục và kỳ xí giống như binh của Vương Mậu Chương. An Nhân Nghĩa không biết rằng quân tăng viện đã đến, vì thế không đề phòng, và bị Từ Ôn đánh bại. (Tuy nhiên, lúc này Nhuận châu vẫn chưa thất thủ.) Cũng trong năm đó, Dương Hành Mật nhận được tin rằng Chu Diên Thọ (朱延壽, đệ của Chu phu nhân) đồng ý tham gia nổi dậy cùng Điền Quân và An Nhân Nghĩa và dự định khởi sự tại Thọ châu. Nghe theo ý của khách Nghiêm Khả Cầu (嚴可求), Từ Ôn đề xuất với Dương Hành Mật giả bộ bị mù để bẫy Chu Diên Thọ,
Năm 905, khi bệnh tình nặng hơn, Dương Hành Mật triệu hồi Dương Ác từ Tuyên châu trở về Dương châu để giao phó lại Hoài Nam, tiết độ phán quan Chu Ẩn (周隱) phản đối vì cho rằng Dương Ác là một người kế nhiệm không phù hợp. Chu Ẩn đề xuất rằng Dương Hành Mật nên ủy thác lại Hoài Nam cho Lưu Uy (劉威), với chỉ thị rằng quyền lực sẽ được trao lại cho một trong số các nhi tử của Dương Hành Mật khi họ lớn lên, song Từ Ôn và Trương Hạo (張顥) thì cho rằng việc này là bất khả thi. Đến khi Dương Hạo lại bảo Chu Ẩn triệu kiến Dương Ác, Chu Ẩn soạn thảo lệnh song trì hoãn việc gửi đi. Tuy nhiên, Từ Ôn và Trương Hạo phát hiện ra và truyền lệnh đi. Dương Hành Mật cho Dương Ác giữ chức Hoài Nam lưu hậu, và không lâu sau thì hoăng. Theo thỉnh cầu của các tướng tá Hoài Nam, Lý Nghiễm (李儼) "thừa chế" bổ nhiệm Dương Ác kế nhiệm Dương Hành Mật. vào năm 906,
Cũng trong năm 907, Chu Toàn Trung soán vị triều Đường và lập ra triều Hậu Lương. Dương Ác cùng với Tấn vương Lý Khắc Dụng, Kỳ vương Lý Mậu Trinh, Thục vương Vương Kiến từ chối công nhận Hoàng đế Hậu Lương, tiếp tục sử dụng niên hiệu "Thiên Hựu" của triều Đường. quan sát sứ, song Nghiêm Khả Cầu thuyết phục Từ Ôn và Hoài Nam tiết độ phó sứ Lý Thừa Tự (李承嗣) rằng Trương Hạo có ý định muốn loại bỏ họ; sau đó Từ Ôn kiếm cớ để được ở lại Dương châu. Sau khi Trương Hạo thất bại trong một nỗ lực ám sát Nghiêm Khả Cầu, Nghiêm Khả Cầu và Từ Ôn lên kế hoạch lật đổ Trương Hạo. Sau đó, Từ Ôn thuyết phục được Tả giám môn vệ tướng quân Chung Thái Dương (鍾泰章) cùng tham gia vào âm mưu. Vào đêm ngày 18 tháng 6, Chung Thái Dương đem quân tiến vào nha đường, giết chết Trương Hạo cùng thân cận. Sau đó, Từ Ôn đổ tội ám sát Dương Ác cho một mình Trương Hạo, được Dương Long Diễn bổ nhiệm là Tả hữu nha đô chỉ huy sứ, xử lý quân phủ sự. Từ Ôn ủy thác việc quân cho Nghiêm Khả Cầu, ủy thác việc chi kế cho Lạc Tri Tường (駱知祥), và theo ghi chép thì cả Nghiêm Khả Cầu và Lạc Tri Tường đều có tài, Hoằng Nông được cai quản tốt. Bản thân Từ Ôn được mô tả là trầm nghị, tự phụng, và giản kiệm. Tuy không biết chữ, song khi phải quyết định về vấn đề pháp lý, ông sẽ bảo người khác đọc cho mình nghe trước khi quyết định theo tình và lý. là một địa điểm chiến lược trong việc kiểm soát Trường Giang bằng chiến hạm, Hoài Nam hành quân phó sứ Từ Ôn tự lĩnh chức Thăng châu thứ sử, song khiển Nguyên Tòng chỉ huy sứ Từ Tri Cáo đi quản lý chiến hạm ở Kim Lăng, giữ chức Thăng châu đội sát kiêm Lâu thuyền phó sứ. Cũng vào năm đó, khi Phủ châu thứ sử Nguy Toàn Phúng (危全諷) (quy phục trên danh nghĩa cả Hoằng Nông và Hậu Lương) quay sang chống lại Hoằng Nông và xưng là Trấn Nam tiết độ sứ, theo đề xuất của Nghiêm Khả Cầu, Từ Ôn khiển Chu Bản (周本) suất quân đi đánh Nguy Toàn Phúng. Kết quả, Chu Bản đánh bại và bắt được Nguy Toàn Phúng, Hoằng Nông thôn tính Phủ châu. quan sát sứ. quan sát sứ Đào Nhã (陶雅), Tuyên châu quan sát sứ Lý Ngộ (李遇), và Thường châu thứ sử Lý Giản (李簡), họ đều có công lao và địa vị cao hơn trong quân đội so với Từ Ôn khi Dương Hành Mật còn sống. Khi quán dịch sứ Từ Giới (徐玠) đi sứ sang Ngô Việt, Từ Ôn lệnh cho Từ Giới dừng lại ở Tuyên châu, cố thuyết phục Lý Ngộ đến Quảng Lăng yết kiến Dương Long Diễn, song không thành công. Khi Từ Ôn biết tin, ông ta tức giận và khiển Đô chỉ huy sứ Sài Tái Dụng (柴再用), cho Từ Tri Hạo làm phó, suất binh lính bốn châu: Thăng, Nhuận, Trì, Thiệp đi tiến công Tuyên châu. Từ Ôn sau đó sai điển khách Hà Nhiêu (何蕘) nhân danh Dương Long Diễn nói: "Nếu Công dứt khoát quyết tâm làm phản, thỉnh trảm Nhiêu để thể hiện, nếu không thì theo Nhiêu ra khỏi thành." Lý Dục sau đó đầu hàng nhưng Từ Ôn vẫn lệnh cho Sài Tái Dụng xử tử Lý Dục cùng gia quyến. Sau sự việc này, các quan lại khác không dám phản đối Từ Ôn nữa
Từ Ôn cũng nghe được lời đồn rằng Lưu Uy có kế hoạch chống lại ông, vì thế chuẩn bị thảo phạt Lưu Uy. Lưu Uy cố gắng xua tan nghi ngờ bằng việc tiến về Dương châu cùng với Đào Nhã, yết kiến Dương Long Diễn. Từ Ôn hậu đãi Lưu Uy và Đào Nhã, rồi cùng với họ đến gặp Lý Nghiễm và đề nghị Lý Nghiễm "thừa chế" trao cho Dương Long Diễn chức Thái sư và Ngô vương. Từ Ôn lĩnh Trấn Hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự (tể tướng trên danh nghĩa), Hoài Nam hành quân tư mã. Sau đó, ông khiển Lưu Uy và Đào Nhã hoàn trấn, thể hiện rằng ông không nghi ngờ họ. của Ngô, họ chiến bại trước quân Ngô do Từ Ôn và tướng Trần Hựu (陳祐) thống lĩnh, nhiều binh sĩ Ngô Việt tử chiến.
Năm 915, Từ Ôn bổ nhiệm trưởng tử là Nha nội đô chỉ huy sứ Từ Tri Huấn (徐知訓) làm Hoài Nam hành quân phó sứ, Nội ngoại mã bộ chư quân phó sứ. Sau đó, Từ Ôn bổ nhiệm mình là Quản nội thủy lục mã bộ chư quân đô chỉ huy sứ, Lưỡng Chiết đô chiêu thảo sứ, thủ Thị trung, phong tước Tề quốc công, trấn Nhuận châu và tuần thuộc 6 châu: Thăng, Nhuận, Thường, Tuyên, Thiệp Trì; để Từ Tri Huấn ở lại Quảng Lăng (Dương châu) bình chính, vẫn là người quyết định việc quân chính của Ngô như trước. Năm 917, Từ Ôn chuyển căn cứ đến Thăng châu, bổ nhiệm Từ Tri Cáo là Nhuận châu thứ sử.
Trong khi đó, Từ Ôn lệnh cho tướng Lưu Tín (劉信) suất quân đi tiết công Bách Thắng tiết độ sứ Đàm Toàn Bá (譚全播) — người trên danh nghĩa quy phục cả Ngô và Hậu Lương — nhằm thôn tính Bách Thắng. Lưu Tín có thể đẩy lui quân cứu viện của Ngô Việt, Sở vương Mã Ân, và Mân vương Vương Thẩm Tri, song không thể chiếm được thủ phủ Kiền châu (虔州) của Bách Thắng. Do đó, Lưu Tín cầu hòa với Đàm Toàn Bá, song Từ Ôn khi được Lưu Tín thông báo thì tức giận và khiển Lưu Ngạn Anh (劉英彥)- nhi tử của Lưu Tín- suất 3.000 quân và nói với Lưu Ngạn Anh rằng: "Phụ thân ngươi ở trên đất thượng du, lại có binh lính đông gấp 10 lần, nếu như không thể hạ được một thành thì là làm phản. Ngươi có thể đem số binh này đến cùng phụ thân ngươi làm phản" Khi Lưu Ngạn Anh đến doanh trại của Lưu Tín và truyền lại lời của Từ Ôn, Lưu Tín trở nên lo sợ và quyết định lại bao vây Kiền châu. Cuối cùng, Kiền châu thất thủ, Lưu Tín bắt được Đàm Toàn Bá, Bách Thắng quân về tay Ngô.. Tuy nhiên, Từ Ôn, nói rằng ông muốn để người dân nghỉ ngơi, và quyết định phóng thích các tù binh Ngô Biệt, đề xuất thiết lập hòa bình lâu dài với Tiền Lưu. Tiền Lưu chấp thuận và cũng phóng thích các tù binh Ngô, trong 20 năm sau đó giữa hai nước không có chiến tranh. Trong khi đó, cả Từ Ôn và Dương Long Diễn đều viết thư cho Tiền Lưu để thuyết phục người này tuyên bố độc lập với Hậu Lương, song không có kết quả. Từ Ôn lúc này cũng nghe được tin rằng tam đệ của Dương Long Diễn là Lư Giang quận công Dương Mông (楊濛) than thở về việc Dương gia bị mất thực quyền, do vậy trở nên cảnh giác Dương Mông; đoàn luyện sứ.
Mặc dù tuyên bố độc lập theo ý của Từ Ôn, song Dương Long Diễn không hài lòng trước việc này, và sau đó ông ta uống nhiều rượu rồi bị ốm. Năm 920, do bệnh tình của Dương Long Diễn rất xấu, Từ Ôn trở về Dương châu. Một số thuộc hạ đề xuất ông nên soán vị, song ông từ chối. Thay vào đó, Từ Ôn bỏ qua Dương Mông, và ban chỉ nhân danh Dương Long Diễn để triệu tứ đệ là Đan Dương quận công Dương Phổ về Dương châu giám quốc (trên danh nghĩa). Dương Long Diễn sau đó qua đời, Dương Phổ trở thành quốc vương của Ngô.
Cũng trong năm 923, Hậu Đường chiếm được kinh đô Đại Lương của Hậu Lương, hoàng đế Chu Trấn của Hậu Lương tự sát. Hậu Đường sau đó khiển sứ giả đến Ngô và Tiền Thục để thông báo việc diệt Lương, cả hai nước đều khiếp sợ. Từ Ôn thoạt đầu oán trách Nghiêm Khả Cầu rằng khi trước không nên ngăn ông hợp binh, Nghiêm Khả Cầu chỉ ra rằng Hậu Đường Trang Tông trở nên kiêu ngạo sau chiến thắng và không còn cai quản tốt, và bày tỏ mình tin rằng Hậu Đường Tràng Tông sẽ mất ngôi vị trong vòng vài năm. thứ sử. Từ Ôn triệu Chung Thái Chương đến Kim Lăng để đích thân thẩm vấn, song đến khi Chung Thái Chương từ chối biện hộ cho bản thân, Từ Ôn thả người này ra. Từ Tri Cáo muốn trừng phạt Chung Thái Chương hơn nữa, song Từ Ôn nói rằng nếu không có Chung Thái Chương thì ông đã chết dưới tay Trương Hạo, và từ chối. Thay vào đó, Từ Ôn cho nhi tử của Từ Tri Cáo là kết hôn với nhi nữ của Chung Thái Chương nhằm hòa giải. để xem xét lâu thuyền, Từ Ôn và Từ Tri Cáo đều đến yết kiến Dương Phổ, và Dương Phổ nhân thời cơ này để than phiền về thân lại của Từ Ôn là Trạch Kiền (翟虔)- người mà Từ Ôn cho quản lý các môn, cung thành, võ bị; do Trạch Kiền đặt ra nhiều hạn chế trong việc di chuyển của Dương Phổ và theo dõi các động thái của ông. Từ Ôn đốn thủ (lạy đầu sát đất) tạ tội, thỉnh trảm Trạch Kiền, song Dương Ác nói rằng việc này không cần thiết mà chỉ cần lưu đày là đủ, do vậy Từ Ôn đày Trạch Kiền đến Phủ châu.
Năm 926, do bị ốm nên Tiền Lưu đã đến Y Cẩm quân tĩnh dưỡng, cho Tiền Truyền Quán xử lý chính sự tại quốc đô. Từ Ôn phái sứ giả đến, bề ngoài là nhằm chúc cho Tiền Lưu nhanh bình phục, song Tiền Lưu đã đánh giá chính xác rằng Từ Ôn đang cố tìm ra bệnh của mình để chuẩn bị tiến công, vì thế vẫn cố gắng tiếp sứ giả. Từ Ôn cho rằng Tiền Lưu không bị bệnh nên đã hủy bỏ kế hoạch tiến công. Sau đó, Tiền Lưu hồi phục và trở về Tiền Đường.
Sau khi Hậu Đường Trang Tông bị hành thích và Hậu Đường Minh Tông tức vị ở Trung Nguyên, quốc chủ Kinh Nam là Cao Quý Hưng tuyên bố độc lập. Năm 927, Cao Quý Hưng cho bắt ngựa mà Hậu Đường Minh Tông ban cho Mã Ân, đề nghị được làm thần của Ngô. Từ Ôn cho rằng việc nhận Kinh Nam làm chư hầu là không thực tế vì khoảng cách xa xôi, nên quyết định từ chối.
Trong nhiều năm, các tham mưu của Từ Ôn, trong đó có Nghiêm Khả Cầu,
Gia quyến
;Thê thiếp
- Bạch thị
- Lý thị
- Trần thị ;Tử
- Từ Tri Huấn (徐知訓), bị Chu Cẩn giết năm 918
- Từ Tri Tuân (徐知詢, ? - 934), Đông Hải Khang vương
- Từ Tri Hối (徐知誨)
- Từ Tri Gián (徐知諫) (died 931)
- Từ Tri Chứng (徐知證), năm 937 được phong là Giang vương, sau cải phong Ngụy vương
- Từ Tri Ngạc (徐知諤, 905-939), năm 937 được phong là Nhiêu vương, sau cải phong Lương Hoài vương
- Quảng Đức công chúa, kết hôn với Lý Kiến Huân (李建勳) ; Dưỡng tử
- Từ Tri Cáo (徐知誥), sau này Nam Đường Liệt Tổ Lý Biện (李昪)