✨Tị nạn

Tị nạn

Một người tị nạn, nói chung, là một người bị buộc phải di dời, bị buộc phải vượt qua biên giới quốc gia và không thể trở về nhà an toàn. Một người như vậy có thể được gọi là người xin tị nạn, cho đến khi được cấp tình trạng tị nạn bởi nhà nước ký kết hoặc UNHCR nếu họ chính thức đưa ra yêu cầu xin tị nạn. Cơ quan quốc tế hàng đầu phối hợp bảo vệ người tị nạn là Văn phòng Liên Hợp Quốc của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR). Liên Hợp Quốc có Văn phòng thứ hai dành cho người tị nạn, UNRWA, chỉ chịu trách nhiệm hỗ trợ phần lớn người tị nạn Palestine.

Từ nguyên và cách sử dụng

Từ "tị nạn" () là một từ mượn gốc Hán Việt, mang nghĩa "tránh khỏi tai họa, khốn ách", thường dùng để chỉ một trường hợp phải chạy trốn qua một xứ khác, nơi khác để thoát cảnh hiểm nguy, ngược đãi, hoặc bắt bớ. Người tị nạn là người thực hiện hành động tị nạn (tránh nạn) đó.

Các thuật ngữ tương tự trong các ngôn ngữ khác đã mô tả một sự kiện đánh dấu sự di dân của một số lượng dân cư cụ thể từ nơi xuất phát, chẳng hạn như tường thuật trong Kinh Thánh về người Israel chạy trốn khỏi cuộc chinh phạt của người Assyria (), hay nơi trú ẩn của nhà tiên tri Muhammad và những môn đồ di cư đồng hành của ông với những người giúp đỡ tại Yathrib (sau này là Medina) sau khi họ trốn chạy khỏi cuộc đàn áp ở Mecca.

Trong tiếng Anh, thuật ngữ refugee ("người tị nạn") bắt nguồn từ refuge ("nơi ẩn náu"), từ tiếng Pháp cổ refuge, nghĩa là "nơi trú ẩn". Nó đề cập đến "ơi trú ẩn hoặc bảo vệ khỏi nguy hiểm hoặc đau khổ", có gốc từ tiếng Latin fugere, "chạy trốn", và refugium, "một nơi [để] ẩn náu, nơi để trốn đi". Trong lịch sử phương Tây, thuật ngữ này lần đầu tiên được áp dụng cho những người Huguenot là các tín đồ người Pháp theo đạo Tin lành tìm kiếm một nơi an toàn chống lại cuộc đàn áp Công giáo sau bản sắc lệnh Fontainebleau đầu tiên năm 1540. Từ này xuất hiện trong tiếng Anh khi những người Pháp Huguenot của Pháp trốn sang Anh với số lượng lớn sau sắc lệnh Fontainebleau năm 1685 (sự hủy bỏ Sắc lệnh Nantes năm 1598) ở Pháp và Tuyên bố Khoan hồng tại Anh và Scotland năm 1687. Từ này có nghĩa là "người tìm nơi trú ẩn", cho đến khoảng năm 1914, khi nó phát triển thành "người trốn khỏi nhà", đã áp dụng trong trường hợp này cho dân thường ở Flanders đi về phía tây để chạy thoát khỏi chiến trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Các định nghĩa

phải|nhỏ|Trại tị nạn [[Darfur ở Tchad, 2005]] Định nghĩa hiện đại đầu tiên về tình trạng tị nạn quốc tế được đề xuất bởi Hội Quốc Liên năm 1921 từ Ủy ban tị nạn. Sau Thế chiến II, và để đáp ứng với số lượng lớn người chạy trốn khỏi Đông Âu, Công ước về người tị nạn của Liên Hợp Quốc năm 1951 đã định nghĩa "người tị nạn" (tại Điều 1.A.2) là bất kỳ ai:

"bởi nỗi sợ hình thành vì bị đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, vi thành viên một hội nhóm xã hội đặc biệt hoặc vì quan điểm chính trị cụ thể, cư trú bên ngoài quốc gia của mình và không thể hoặc, do sợ hãi như vậy, không sẵn sàng tự mình tận dụng sự bảo vệ của đất nước đó; hoặc là người không có quốc tịch và cư trú bên ngoài quốc gia là nơi cư trú trước đây của người đó, do các sự kiện như vậy, không thể hoặc, do sợ hãi như vậy, không sẵn lòng quay trở lại với nó."
Năm 1967, định nghĩa về cơ bản đã được xác nhận bởi Nghị định thư liên quan đến tình trạng của người tị nạn của Liên Hợp Quốc.

Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi đã mở rộng định nghĩa năm 1951, được Tổ chức châu Phi Thống nhất thông qua năm 1969:

"Một người, do sự xâm lược, chiếm đóng, sự thống trị của nước ngoài hoặc các sự kiện gây xáo trộn nghiêm trọng trật tự công cộng ở một phần hoặc toàn bộ quốc gia hoặc quốc tịch nguyên gốc của mình, buộc phải rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình để tìm nơi ẩn náu ở nơi khác bên ngoài đất nước hoặc quốc tịch của mình."
Văn bản không ràng buộc từ Mỹ Latin Tuyên bố Cartagena về người tị nạn năm 1984 bao gồm:
"những người đã rời khỏi đất nước của họ vì tính mạng, sự an toàn hoặc tự do của họ đã bị đe dọa bởi bạo lực tổng quát, xâm lược nước ngoài, xung đột nội bộ, vi phạm nhân quyền hoặc các tình huống khác đã gây xáo trộn nghiêm trọng trật tự công cộng."
Kể từ năm 2011, chính UNHCR, ngoài định nghĩa năm 1951, còn công nhận những người sau là người tị nạn:
"những người ở bên ngoài quốc tịch hoặc nơi cư trú thường xuyên của họ và không thể trở về đó do các mối đe dọa nghiêm trọng và bừa bãi đối với cuộc sống, tính toàn vẹn về thể chất hoặc tự do do bạo lực chung hoặc các sự kiện gây rối nghiêm trọng trật tự công cộng."
Định nghĩa tiêu chuẩn tối thiểu của Liên minh châu Âu về người tị nạn, được nhấn mạnh bởi Điều 2 (c) của Chỉ thị số 2004/83/EC, về cơ bản tái tạo định nghĩa hẹp về người tị nạn được đưa ra bởi Công ước Liên Hợp Quốc năm 1951; tuy nhiên, theo các điều 2 (e) và 15 của cùng Chỉ thị, những người đã chạy trốn khỏi hành động bạo lực tổng quát do chiến tranh, ở một số điều kiện, đủ điều kiện cho một hình thức bảo vệ bổ sung, được gọi là bảo vệ phụ trợ (subsidiary protection). Hình thức bảo vệ tương tự cũng được thấy trước đối với những người di tản, những người không phải là người tị nạn, tuy nhiên vẫn bị rơi vào tình thế nguy hiểm, nếu trở về nước họ, bị tử hình, tra tấn hoặc các phương pháp điều trị vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác.

Lịch sử

nhỏ|250 px|Dân tỵ nạn Nga năm [[1942 trong trận Stalingrad thời Chiến tranh thế giới thứ hai]]

Khái niệm tỵ nạn đã có từ thời cổ đại khi người chạy trốn có thể tìm đến nơi thần quyền như ở một ngôi đền để lánh nạn mà không bị bắt. Thời Trung cổ, ở châu Âu cũng ghi nhận có một số luật lệ quy định quyền lánh nạn ở chốn tôn nghiêm thờ phụng.

Trong sử Việt thì có chép việc vua Lý Huệ Tông sau khi nhường ngôi cho con là Công chúa Chiêu Thánh và rồi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần thì cựu hoàng Huệ Tông vào tu ở chùa Chân Giáo để tránh sự phiền nhiễu chính trị. Tuy không bị bắt, Huệ Tông cũng bị Trần Thủ Độ làm áp lực tinh thần và phải treo cổ tự vẫn.

Qua nhiều thế kỷ, lịch sử từng ghi những đợt di dân để lánh nạn như vào năm 1685 ở Pháp có Sắc lệnh Fontainebleau (Édit de Fontainebleau) khi vua Louis XIV xuống chiếu cấm đạo Tin Lành khiến hàng trăm nghìn giáo dân Huguenot phải bỏ quê hương trốn sang các nước Anh, Thụy Sĩ, Hà Lan, Đức, v.v. Ở Đông Âu thì có những đợt cấm đạo Do Thái làm hơn hai triệu dân đạo ở Nga phải bỏ chạy vào những thập niên cuối thế kỷ 19.

Tổ chức đầu tiên lập ra để đối phó với vấn đề tỵ nạn là Cao ủy Tỵ nạn của Hội Quốc Liên vào năm 1921. Cuộc nội chiến ở Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã tạo ra khoảng một triệu rưỡi dân Nga bỏ nước để tránh chính quyền Cộng sản. Năm 1923 thì Cao ủy lãnh thêm nhiệm vụ cứu trợ dân Armenia ở Tiểu Á trong cuộc thanh trừng diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới thứ hai đánh dấu một bước rẽ với con số dân tỵ nạn lên cao và ảnh hưởng một vùng rộng lớn. Năm 1943 phe Đồng Minh cho thành lập Quyền vụ Cứu trợ và Phục hồi Liên quốc (United Nations Relief and Rehabilitation Administration, UNRAA) để giúp ổn định những khu vực mới được giải phóng khỏi vòng kiểm soát của phe Trục (đệ nhị thế chiến). Công tác này bao gồm việc định cư hơn bảy triệu dân sơ tán nay cần được hồi hương. Số khoảng một triệu người không muốn hồi hương thì cần trại tạm trú.

Hội nghị Potsdam năm 1945 cũng hoạch định lại biên giới ở Âu châu khiến 15 triệu dân Đức bỗng nhiên thuộc thẩm quyền của nhà chức trách mới của Ba Lan, Tiệp Khắc, và Hung Gia Lợi. Trong khi đó Hội nghị Yalta có ghi điều kiện buộc hồi hương hàng triệu dân Nga về Liên Xô.

Nam Á

Cũng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đế quốc Anh tuyên bố giải thể thuộc địa Ấn Độ và chia xứ đó thành Ấn Độ và Pakistan vì lý do tôn giáo. Hàng chục triệu người phải di cư: dân đạo Hồi bỏ sang Pakistan và dân đạo Ấn tràn sang Ấn Độ, tổng cộng ước đoán là 10 đến 12 triệu (có thể lên đến 20 triệu) vượt biên giới năm 1947 để chọn xứ sở mới.

Chiến tranh Việt Nam

Sau khi Sài Gòn sụp đổ kết thúc sự tồn tại của nền cộng hòa tại Việt Nam, chính quyền mới khi lên cầm quyền đã tiến hành thực hiện hàng loạt các chính sách sau khi thống nhất đất nước như quốc hữu hóa tài sản tư, các cuộc đổi tiền tại Việt Nam, 1975 "ngăn sông cấm chợ", phân biệt xuất thân gia đình, bắt ép người từng làm việc cho chế độ cũ đi cải tạo, hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp,... Những điều đó đã làm cho kinh tế của Việt Nam trở nên tụt hậu trầm trọng, đời sống của người dân lâm vào cảnh vô cùng khó khăn, chế độ mới được nhiều người dân miền Nam cho là thiếu tự do. Ngoài ra sau 1975 Việt Nam còn phải hứng chịu thêm hai cuộc chiến tranh gồm Chiến tranh biên giới Tây Nam với Khơ-me đỏ (1979-1989) và Chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc (1979) đã khiến tình hình càng thêm trầm trọng. Vì vậy tổng kết từ cuối năm 1975 đến năm 1995 trải qua 20 năm đã có khoản hơn 839.000 người dân Việt đã rời bỏ Việt Nam chạy trốn đến các trại tỵ nạn ngoài nước ngoài (chủ yếu bằng đường thủy và đường bộ), chưa kể số người đã thiệt mạng trên đường vượt biên. Cuộc tị nạn này được họ xác định với mục đích là tìm đường đến tự do. Cuộc di tản đầu tiên được thực hiện bởi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ với chiến dịch Gió lốc nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam. Tiếp đến là hàng loạt người Việt Nam tự tìm cách vượt biên bằng đường thủy và đường bộ đến các trại tị nạn ở các nước châu Á khác như Singapore, Thái Lan, Philippines, Hongkong, Nam Hàn, Nhật Bản,... Tình hình tị nạn xảy ra tương tự với những người ở Lào và Campuchia nhưng với quy mô nhỏ hơn rất nhiều.

Cuộc tị nạn này được nhiều người trên thế giới biết đến với thuật ngữ "thuyền nhân" (Boat people).

Nghiên cứu về người tị nạn

Với sự xuất hiện của các trường hợp di cư và cưỡng bức di dân chính, nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa của chúng đã nổi lên như một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành hợp pháp, và bắt đầu nổi lên từ giữa đến cuối thế kỷ 20, sau Thế chiến II. Mặc dù những đóng góp quan trọng đã được thực hiện trước đó, nửa sau của thế kỷ 20 đã chứng kiến ​​việc thành lập các tổ chức dành riêng cho việc nghiên cứu người tị nạn, như Hiệp hội Nghiên cứu về vấn đề tị nạn thế giới (Association for the Study of the World Refugee Problem), được theo sát bởi sự thành lập của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn. Cụ thể, phiên bản năm 1981 của tài liệu Đánh giá di cư quốc tế (International Migration Review) đã xác định các nghiên cứu về người tị nạn là "một viễn cảnh toàn diện, lịch sử, liên ngành và mang tính tương đối, tập trung vào sự nhất quán và các kiểu mẫu trong trải nghiệm về tị nạn." Sau khi xuất bản, lĩnh vực này đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm ngày càng gia tăng về mặt học thuật và nghi vấn tìm hiểu, mà vẫn tiếp tục cho đến hiện tại. Đáng chú ý nhất là vào năm 1988, Tạp chí Nghiên cứu về người tị nạn (Journal of Refugee Studies) được thành lập như là tạp chí liên ngành lớn đầu tiên của lĩnh vực này.

Sự xuất hiện các nghiên cứu về người tị nạn như một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt đã bị các học giả chỉ trích do khó khăn về thuật ngữ. Do không hề có định nghĩa được chấp nhận phổ biến cho thuật ngữ "người tị nạn" ("refugee"), nên sự tôn trọng về mặt học thuật của định nghĩa dựa trên chính sách, như được nêu trong Công ước về người tị nạn năm 1951, vẫn gây tranh cãi cho tới hiện tại. Ngoài ra, các học giả đã phê phán việc thiếu cơ sở lý thuyết của các nghiên cứu về người tị nạn và sự thống trị của nghiên cứu định hướng chính sách. Đáp lại, các học giả đã cố gắng lèo lái lĩnh vực này để thiết lập một nền tảng lý thuyết về nghiên cứu người tị nạn thông qua "nghiên cứu tình huống của các nhóm người tị nạn cụ thể (và những người di cư bị ép buộc khác) trong các lý thuyết về các lĩnh vực nhận thức (và các ngành chính), [cung cấp] một cơ hội để sử dụng các hoàn cảnh cụ thể của các tình huống tị nạn để làm sáng tỏ những lý thuyết tổng quát hơn này và do đó tham gia vào sự phát triển của khoa học xã hội, thay vì dẫn dắt các nghiên cứu về người tị nạn vào một cống hiến trí tuệ." Do đó, thuật ngữ tị nạn trong bối cảnh nghiên cứu về người tị nạn có thể được gọi là "phiếu tự đánh giá hợp pháp hoặc mang tính mô tả", bao gồm nền tảng kinh tế xã hội, lịch sử cá nhân, phân tích tâm lý và tâm linh.

Hòa nhập và nhập quốc tịch

Giải pháp hòa nhập ở địa phương nhằm mục đích cung cấp cho người tị nạn quyền ở lại vĩnh viễn ở đất nước tị nạn, bao gồm, trong một số tình huống, là một công dân nhập tịch. Nó tuân theo việc chính thức cấp tình trạng tị nạn của đất nước tị nạn. Có những khó khăn nhất định để định lượng số người tị nạn định cư và hòa nhập ở đất nước tị nạn đầu tiên của họ và chỉ có số lần nhập tịch mới có thể đưa ra một dấu hiệu. Năm 2014, Tanzania đã trao quyền công dân cho 162.000 người tị nạn từ Burundi và năm 1982 cho 32.000 người tị nạn Rwanda. Mexico đã nhập tịch cho 6.200 người tị nạn Guatemala vào năm 2001.

Trở về tự nguyện

Sự trở lại tự nguyện của những người tị nạn về đất nước của họ, được đảm bảo về an toàn và nhân phẩm, dựa trên ý muốn tự do và quyết định được thông báo của họ. Trong vài năm qua, một phần hoặc thậm chí toàn bộ dân số tị nạn đã có thể trở về nước của họ: ví dụ: 120.000 người tị nạn Congo đã trở về Cộng hòa Dân chủ Congo từ Cộng hòa Congo, 30.000 người Angola trở về nhà từ Cộng hòa Dân chủ Congo và Botswana, những người tị nạn Bờ Biển Ngà trở về từ Liberia, người Afghanistan từ Pakistan và người Iraq từ Syria. Năm 2013, chính phủ Kenya và Somalia cũng đã ký một thỏa thuận ba bên tạo điều kiện cho việc hồi hương của những người tị nạn từ Somalia. UNHCR và IOM cung cấp hỗ trợ cho những người tị nạn muốn tự nguyện trở về nước họ. Nhiều quốc gia phát triển cũng có các chương trình Hỗ trợ Trả lại Tự nguyện (AVR) cho những người xin tị nạn muốn quay trở lại hoặc bị từ chối tị nạn.

Sự trở lại tự nguyện của những người tị nạn về đất nước của họ, được đảm bảo về an toàn và nhân phẩm, dựa trên ý muốn tự do và quyết định được thông báo của họ. Trong vài năm qua, một phần hoặc thậm chí toàn bộ dân số tị nạn đã có thể trở về nước của họ: ví dụ: 120.000 người tị nạn Congo đã trở về Cộng hòa Dân chủ Congo từ Cộng hòa Congo, 30.000 người Angola trở về nhà từ Cộng hòa Dân chủ Congo và Botswana, những người tị nạn Bờ Biển Ngà trở về từ Liberia, người Afghanistan từ Pakistan và người Iraq từ Syria. Năm 2013, chính phủ Kenya và Somalia cũng đã ký một thỏa thuận ba bên tạo điều kiện cho việc hồi hương của những người tị nạn từ Somalia. UNHCR và IOM cung cấp hỗ trợ cho những người tị nạn muốn tự nguyện trở về nước họ. Nhiều quốc gia phát triển cũng có các chương trình Hỗ trợ Trở về Tự nguyện (AVR) cho những người xin tị nạn muốn quay trở lại hoặc bị từ chối tị nạn.

Tái định cư nước thứ ba

Tái định cư ở nước thứ ba liên quan đến việc chuyển người tị nạn được hỗ trợ từ quốc gia mà họ đã xin tị nạn sang một nước thứ ba an toàn đã đồng ý nhận họ là người tị nạn. Điều này có thể được giải quyết vĩnh viễn hoặc giới hạn trong một số năm nhất định. Nó là giải pháp bền vững thứ ba và nó chỉ có thể được xem xét một khi hai giải pháp còn lại đã được chứng minh là không thể. Theo truyền thống, UNHCR đã xem tái định cư là "giải pháp bền vững" ít thích hợp nhất cho các tình huống tị nạn. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm 2000, Cao ủy viên Liên hợp quốc về người tị nạn, Ogata Sadako, tuyên bố "Tái định cư không còn có thể được coi là giải pháp lâu bền ít được ưu tiên nhất; trong nhiều trường hợp, đó là giải pháp duy nhất cho người tị nạn."

Tái định cư ở nước thứ ba liên quan đến việc chuyển người tị nạn được hỗ trợ từ quốc gia mà họ đã xin tị nạn sang một nước thứ ba an toàn đã đồng ý nhận họ là người tị nạn. Điều này có thể được giải quyết vĩnh viễn hoặc giới hạn trong một số năm nhất định. Nó là giải pháp bền vững thứ ba và nó chỉ có thể được xem xét một khi hai giải pháp còn lại đã được chứng minh là không thể. Theo truyền thống, UNHCR xem tái định cư là "giải pháp bền vững" ít thích hợp nhất cho các tình huống tị nạn. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm 2000, Cao ủy viên Liên hợp quốc về người tị nạn, Ogata Sadako, tuyên bố "Tái định cư không còn có thể được coi là giải pháp lâu bền ít được ưu tiên nhất; trong nhiều trường hợp, đó là giải pháp duy nhất cho người tị nạn."

Người di cư nội địa

Nhiệm vụ của UNHCR đã dần được mở rộng để bao gồm bảo vệ và cung cấp hỗ trợ nhân đạo cho những người bị di dời nội bộ (IDP) và những người trong các tình huống giống như IDP. Đây là những thường dân đã bị buộc phải chạy trốn khỏi nhà của họ, nhưng chưa đến được một quốc gia láng giềng. IDP không phù hợp với định nghĩa pháp lý của người tị nạn theo Công ước tị nạn 1951, Nghị định thư 1967 và Công ước Tổ chức Thống nhất Châu Phi 1969, vì họ chưa rời khỏi đất nước của mình. Vì bản chất của chiến tranh đã thay đổi trong vài thập kỷ qua, với ngày càng nhiều xung đột nội bộ thay thế các cuộc chiến giữa các tiểu bang, số lượng IDP đã tăng lên đáng kể.

Tình trạng tị nạn

Thuật ngữ "người tị nạn" thường được sử dụng trong các bối cảnh khác nhau: trong sử dụng thường ngày, nó đề cập đến một người bị buộc phải di dời, người đã trốn khỏi đất nước của họ; trong một bối cảnh cụ thể hơn, nó đề cập đến một người như vậy, trên hết, được cấp tình trạng tị nạn ở quốc gia mà người đó đang chạy trốn. Thậm chí độc quyền hơn là tình trạng người tị nạn theo Công ước chỉ dành cho những người nằm trong định nghĩa về người tị nạn của Công ước 1951 và Nghị định thư 1967.

Để nhận được tình trạng tị nạn, một người phải nộp đơn xin tị nạn, biến họ thành—trong khi chờ đợi quyết định—một ứng viên xin tị nạn. Tuy nhiên, một người bị di dời có quyền hợp pháp đối với tình trạng tị nạn có thể không bao giờ được nộp đơn xin tị nạn, hoặc có thể không được phép nộp đơn ở quốc gia mà họ trốn sang và do đó có thể không có được tình trạng người tị nạn chính thức.

Khi một người di dời được cấp tình trạng tị nạn, họ được hưởng một số quyền theo thỏa thuận trong Công ước về người tị nạn năm 1951. Không phải tất cả các quốc gia đều đã ký và phê chuẩn công ước này và một số quốc gia không có thủ tục pháp lý để đối phó với người xin tị nạn.

Xin tị nạn

nhỏ|Erstaufnahmelager [[Hamburg|Jenfelder Moorpark]] Người xin tị nạn là người di cư hoặc nhập cư, người đã chính thức tìm kiếm sự bảo vệ của quốc gia mà họ trốn sang cũng như quyền ở lại đất nước này và đang chờ quyết định về việc đệ đơn chính thức này. Người xin tị nạn có thể đã nộp đơn xin tình trạng tị nạn Công ước hoặc cho các hình thức bảo vệ bổ sung. Do đó, tị nạn là một thể loại bao gồm các hình thức bảo vệ khác nhau. Hình thức bảo vệ nào được đưa ra tùy thuộc vào định nghĩa pháp lý mô tả đúng nhất lý do bỏ trốn của người xin tị nạn. Một khi quyết định được đưa ra, người xin tị nạn nhận được tình trạng tị nạn theo Công ước hoặc một hình thức bảo vệ bổ sung, và có thể ở lại đất nước—hay bị từ chối tị nạn, và sau đó thường phải rời đi. Chỉ sau khi nhà nước, lãnh thổ hoặc UNHCR—bất cứ nơi nào đơn xin tị nạn được thực hiện—thừa nhận nhu cầu bảo vệ, người xin tị nạn mới chính thức nhận được tình trạng tị nạn. Điều này mang theo các quyền và nghĩa vụ nhất định, theo pháp luật của nước tiếp nhận.

Người tị nạn có hạn ngạch không cần phải xin tị nạn khi đến các nước thứ ba vì họ đã trải qua quá trình xác định tình trạng tị nạn của UNHCR trong khi ở nước đầu tiên của tị nạn và điều này thường được các nước thứ ba chấp nhận.

Xác định tình trạng tị nạn

nhỏ|Trong hơn 30 năm, vài chục ngàn người tị nạn [[Người Sahrawi|Sahrawi đã sống ở vùng Tindouf, Algeria, giữa lòng sa mạc.]] Để nhận được tình trạng tị nạn, một người di dời phải trải qua quá trình Xác định tình trạng người tị nạn (RSD), được thực hiện bởi chính phủ của quốc gia tị nạn hoặc UNHCR, và dựa trên luật pháp quốc tế, khu vực hoặc quốc gia. RSD có thể được thực hiện trên cơ sở từng trường hợp cũng như cho cả nhóm người. Việc xác định loại nào trong hai quá trình được sử dụng thường phụ thuộc vào kích thước của dòng người di dời. nhỏ|Sau khi thách thức Nữ hoàng Jezebel, Elijah ẩn náu trong một hang động cho đến khi tiếng nói của Chúa gọi anh ta trong bản khắc gỗ năm 1860 này của [[Julius Schnorr von Karolsfeld]] nhỏ|Một cô gái tị nạn Syria với vẻ mặt đầy hy vọng

Không có phương pháp cụ thể nào được ủy quyền cho RSD (ngoài cam kết với Công ước về người tị nạn năm 1951) và nó phụ thuộc vào hiệu quả chung của hệ thống hành chính và tư pháp nội bộ của đất nước cũng như các đặc điểm của dòng người tị nạn mà quốc gia đáp ứng. Việc thiếu định hướng thủ tục này có thể tạo ra một tình huống trong đó lợi ích chính trị và chiến lược lấn át các cân nhắc nhân đạo trong quy trình RSD. Cũng không có cách giải thích cố định nào về các yếu tố trong Công ước về người tị nạn năm 1951 và các quốc gia có thể diễn giải chúng theo cách khác nhau (xem thêm roulette tị nạn ('refugee roulette')).

Tuy nhiên, vào năm 2013, UNHCR đã tiến hành chúng ở hơn 50 quốc gia và cùng thực hiện chúng song song hoặc cùng với các chính phủ ở 20 quốc gia khác, khiến nó trở thành cơ quan RSD lớn thứ hai trên thế giới UNHCR tuân theo một bộ hướng dẫn được mô tả trong Sổ tay và Hướng dẫn về Thủ tục và Tiêu chí Xác định Tình trạng Người tị nạn ('Handbook and Guidelines on Procedures and Criteria for Determining Refugee Status') để xác định cá nhân nào đủ điều kiện cho tình trạng tị nạn.

Các quyền của người tị nạn

Các quyền của người tị nạn bao gồm cả luật theo tập quán, quy phạm mệnh lệnh và các công cụ pháp lý quốc tế. Nếu thực thể cấp tình trạng tị nạn là một quốc gia đã ký Công ước về người tị nạn năm 1951 thì người tị nạn có quyền được làm việc. Các quyền khác bao gồm các quyền và nghĩa vụ sau đây đối với người tị nạn:

Quyền trở về

Ngay cả trong một môi trường được cho là "hậu xung đột", đó không phải là một quá trình đơn giản để người tị nạn trở về nhà. [67] Bộ nguyên tắc Pinheiro của Liên Hợp Quốc được hướng dẫn bởi ý tưởng rằng mọi người không chỉ có quyền trở về nhà, mà còn có quyền đối với cùng một tài sản. [67] Nó tìm cách quay trở lại hiện trạng trước xung đột và đảm bảo rằng không ai được hưởng lợi từ bạo lực. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất phức tạp và mọi tình huống đều khác nhau; xung đột là một lực lượng biến đổi cao và hiện trạng trước chiến tranh không bao giờ có thể được thiết lập lại hoàn toàn, ngay cả khi điều đó là mong muốn (nó có thể đã gây ra xung đột ngay từ đầu). [67] Do đó, những điều sau đây có tầm quan trọng đặc biệt đối với quyền trở lại: [67]

Ngay cả trong một môi trường được cho là "hậu xung đột", đó không phải là một quá trình đơn giản để người tị nạn trở về nhà. Bộ nguyên tắc Pinheiro của Liên Hợp Quốc được hướng dẫn bởi ý tưởng rằng mọi người không chỉ có quyền trở về nhà, mà còn có quyền đối với cùng một tài sản.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Một **người tị nạn**, nói chung, là một người bị buộc phải di dời, bị buộc phải vượt qua biên giới quốc gia và không thể trở về nhà an toàn. Một người như vậy
**Cuộc khủng hoảng tị nạn Ukraina** là một cuộc di chuyển lớn của người dân Ukraina trong cuộc xâm lược do Nga tiến hành vào năm 2022. Khủng hoảng bắt đầu với cuộc xâm lược
**Cuộc khủng hoảng tị nạn từ Đông Dương** là hiện tượng một lượng lớn người dân tại bán đảo Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) di cư khỏi đất nước của họ, diễn ra sau
**Giải Nansen vì người tị nạn** (tiếng Anh: **Nansen Refugee Award**) là một giải thưởng hàng năm của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn dành cho các cá nhân, các tổ chức
**Người xin tị nạn** là người di cư hoặc nhập cư, người đã chính thức tìm kiếm sự bảo vệ của quốc gia mà họ trốn sang cũng như quyền ở lại đất nước này
Một góc Trung tâm Tiến hành Thủ tục tỵ nạn, Morong, Bataan, Philippines **Trung tâm Tiến hành Thủ tục Tị nạn Philippines** (_Philippine Refugee Processing Center_ hay viết tắt là _PRPC_) là một cơ sở
nhỏ|Một trại tỵ nạn tại [[Darfur]] nhỏ|phải|Một trại tỵ nạn ở châu Phi **Trại tị nạn** là những cơ sở tạm thời (những lều trại, lán trại, nhà tạm bợ...) được xây dựng để giải
nhỏ|Dãy nhà tại trại tị nạn Bạch Thạch, ảnh chụp năm 2008 **Trại tị nạn Hồng Kông** là từ thường dùng để chỉ những **trung tâm giam giữ** ( - VMDCs, ) được Sở Trừng
**Đội tuyển Olympic người tị nạn** thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro, Brasil từ ngày 5 đến ngày 21 tháng 8 năm 2016 với tư cách là các
**Ngày Tị nạn Thế giới** (tiếng Anh:_World Refugee Day_), được Liên Hợp Quốc chọn là ngày **20 tháng 6** hàng năm, làm ngày lễ quốc tế dành để nâng cao nhận thức về tình trạng
**Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn** (tiếng Anh: _United Nations High Commissioner for Refugees_, viết tắt **UNHCR**), hay **Cao uỷ Tị nạn Liên Hợp Quốc**, thường gọi tắt là "Cao ủy Tị
**Cơ quan quốc tế Nansen về người tị nạn**, (tiếng Pháp: **Office International Nansen pour les Réfugiés**), là một tổ chức của Hội Quốc Liên, đảm nhận việc lo liệu cho các người tị nạn
**Cuộc khủng hoảng người tị nạn Rohingya 2015** là sự cố đang diễn ra gắn liền với sự di dân bất hợp pháp của hàng nghìn người Rohingya từ Bangladesh và Myanmar, được phương tiện
nhỏ|phải|Trẻ em Palestin ở trại tị nạn Shatila **Người tị nạn Palestine** (_Palestinian refugees_) là công dân của nhà nước Palestine và con cháu của họ, những người Palestin (_người Pa-le-xtin_) khổ hạnh đã chạy
**Đạo luật trợ giúp người tỵ nạn và di dân Đông Dương** (tiếng Anh: _Indochina Migration and Refugee Assistance Act_) được lập ra nhằm ứng phó trước sự kiện Việt Nam Cộng hòa sụp đổ
nhỏ|260x260px|Vị trí của [[Bangladesh và Myanmar. Chấm đỏ biểu thị thủ đô của mỗi quốc gia.]] **Hỏa hoạn trại tị nạn Rohingya** đề cập đến một vụ cháy bùng phát chiều ngày 22 tháng 3
Angelina Jolie ngoài vai trò là một diễn viên, đạo diễn điện ảnh, cô còn là Đại sứ thiện chí của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn. Cô đi đến những vùng
**Ném bom trại tị nạn Nigeria 2017** là một vụ oanh tạc vào ngày 17 tháng 1 năm 2017, khi một máy bay phản lực của Không quân Nigeria nhầm ném bom một trại tị
Người Tị Nạn Cuốn sách được viết bởi Nguyễn Thanh Việt bút danh Viet Thanh Nguyen nhà văn người Mỹ gốc Việt đầu tiên đoạt giảiPulitzer và nhiều giải thưởng khác của các Hiệp hội
Người Tị Nạn Cuốn sách được viết bởi Nguyễn Thanh Việt bút danh Viet Thanh Nguyen nhà văn người Mỹ gốc Việt đầu tiên đoạt giảiPulitzer và nhiều giải thưởng khác của các Hiệp hội
thumb|right|Tỉnh Hà Nam thuộc [[Trung Quốc|Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay.]] thumb|Tàu của Liên Hợp Quốc (CNRRA) vận chuyển hàng tiếp tế đến Hồ Nam vào năm 1945 **Nạn đói Hà Nam năm
**Đổ lỗi nạn nhân** xảy ra khi nạn nhân của một tội ác hoặc bất kỳ hành động sai trái nào bị buộc tội hoàn toàn hoặc một phần do sự tổn hại xảy ra
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
**Thảm sát Liệt Tự** diễn ra ngày 7 tháng 3 năm 1987 tại vịnh Đông Cương (東崗) thuộc đảo Liệt Tự, huyện đảo Kim Môn, Đài Loan khi binh lính thuộc Sư đoàn bộ binh
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
**Angelina Jolie** (; tên khai sinh **Angelina Jolie Voight**; Jolie là em gái của diễn viên James Haven cũng như là cháu gái của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Chip Taylor và nhà địa chất
**Ngô Đình Lệ Quyên** (26 tháng 7 năm 1959 – 6 tháng tư 2012) là một luật sư, người từng là Ủy viên Di Trú cho thành phố Roma, Ý. ## Tiểu sử Là người
**Alan Kurdi** (), ban đầu được báo cáo là **Aylan Kurdi**, là một cậu bé 3 tuổi người Syria thuộc dân tộc Kurd bị chết đuối vào ngày 2 tháng 9 năm 2015 ở Địa
right|thumb|Trại tị nạn Whitehead, Hồng Kông, đã bỏ hoang không sử dụng từ năm 2008 right|thumb|Trụ sở Lực lượng Không quân Hoàng gia cũ nằm trên đường Quan Đường, Khải Đức, nơi trú ngụ của
**Pulau Bidong** là một đảo xa bờ thuộc quận Kuala Nerus, bang Terengganu, Malaysia, có diện tích 203 mẫu Anh (0,82 kilômét vuông), nhưng chỉ có 12 mẫu Anh (0,049 kilômét vuông), tương đương 6%
**Chiến dịch Thunderstorm** là mật danh cho hoạt động của Quân đội Singapore nhằm ngăn chặn dân tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam Cộng hòa sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975. Hoàng
**Vụ tai nạn tàu E1 tại Lăng Cô 2005** là một vụ tai nạn giao thông đường sắt xảy ra vào 11 giờ 49 phút (UTC+07:00) ngày 12 tháng 3 năm 2005 tại địa phận
**Doanh trại Chaffee** (tiếng Anh: _Fort Chaffee_) nằm trong vùng tây bắc tiểu bang Arkansas kế cận thành phố Fort Smith. Trại nằm cách Sân bay Vùng Fort Smith 1 dặm Anh về hướng đông
**Luật không gửi trả** () là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế ngăn cấm một quốc gia nhận người tị nạn trả lại cho một quốc gia mà họ có nguy cơ
Từ 1977 tới 1979, khoảng 360 người Việt mà đã trốn chạy bằng thuyền khi cộng sản nắm quyền ở miền Nam Việt Nam được Israel (dưới thời thủ tướng Menachem Begin) cho tị nạn.
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
nhỏ|phải|Bìa của hộ chiếu Nansen **Hộ chiếu Nansen** là giấy chứng minh được chấp nhận toàn thế giới, ban đầu do Hội Quốc Liên phát hành cho ''những người tị nạn không quốc tịch. Được
**Y Quynh Bđăp** (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1992) là một người Êđê và nhà hoạt động nhân quyền, đấu tranh cho sự tự do tôn giáo của người Thượng theo đạo Tin Lành
Tai nạn tại [[ga Montparnasse, Paris, năm 1895]] **Tai nạn giao thông** là những sự va chạm, va quẹt, đâm va gây thương tích hoặc gây nguy hiểm xảy ra khi một phương tiện va
**Chiến dịch New Arrivals** (29 tháng 4 – 16 tháng 9 năm 1975) là công cuộc tái định cư 130.000 người tị nạn Việt Nam từ các khu vực tổ chức trên quần đảo Thái
**Cuộc khủng hoảng người nhập cư vào châu Âu** phát sinh do sự gia tăng số lượng người nhập cư đến châu Âu trong năm 2015 - một sự kết hợp của những người di
**Cap Anamur** hay **Hội Bác sĩ Cấp cứu Đức** (tiếng Đức: _Cap Anamur / Deutsche Not-Ärzte_) là tên một tổ chức thiện nguyện của Đức chuyên cứu giúp người tỵ nạn bắt đầu từ năm
**Người Rohingya** là một nhóm sắc tộc người Ấn-Arya (các dân tộc Ấn Độ) theo đạo Hồi và không được công nhận quốc tịch, cư trú tại Bang Rakhine của Myanmar (trước đây gọi là
**Arn Chorn-Pond** (sinh năm 1966) là một nhạc sĩ Campuchia, nhà hoạt động nhân quyền từng sống sót qua nạn diệt chủng tàn bạo dưới thời Khmer Đỏ. Ông còn ủng hộ sức mạnh chữa
phải|nhỏ|Tranh vẽ 1 nữ y tá Hoa Kỳ đang chăm sóc cho người dân tỵ nạn Việt Nam ở đảo Guam sau năm 1975 **Chiến dịch Cuộc sống mới** (Operation New Life) là tên 1
**Đại sứ thiện chí của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn** là những nhân vật nổi tiếng đại diện cho Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn và dùng tài
**Nạn đói năm Ất Dậu** là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng từ 400.000 đến 2
**Phan Thị Kim Phúc**, hay còn được gọi là **Em bé Napalm** (sinh 1963) là một người Canada gốc Việt, nổi tiếng với bức ảnh được trao Giải Pulitzer chụp ngày 8 tháng 6 năm
nhỏ|Một nữ y tá và những trẻ em tị nạn trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam **Chiến dịch Không vận Trẻ em** (tiếng Anh: **Operation Babylift**) là một chiến dịch di tản
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành