✨Tàu bọc thép lớp Định Viễn

Tàu bọc thép lớp Định Viễn

Lớp Đinh Viễn () bao gồm một cặp tàu chiến bọc thép — và — được đóng cho Hải quân Đế quốc Trung Quốc vào những năm 1880. Chúng là những con tàu đầu của Hải quân Trung Quốc có kích thước đó. Chúng được đóng bởi Stettiner Vulcan AG ở Đức. Ban đầu dự kiến đóng 12 tàu, rồi bị giảm xuống còn ba và sau đó là hai, với chiếc đã bị giảm kích thước thành tàu tuần dương bảo vệ.

Chúng đã bị ngăn không cho di chuyển đến Trung Quốc giữa cuộc chiến tranh Trung-Pháp, nhưng lần đầu tiênxung kiến trận chiến tại Trận sông Áp Lục vào ngày 17 tháng 9 năm 1894, trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật đầu tiên. Hai chị em sau đó chiến đấu trong Uy Hải Vệ vào đầu năm 1895, nơi bị phong tỏa ở bến cảng. Định Viễn bị trúng ngư lôi nên phải cố tình mắc cạn để tiếp tục hoạt động như một pháo đài phòng thủ. Khi hạm đội đầu hàng quân Nhật, cô đã bị phá hủy trong khi Trấn Viễn trở thành thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản dưới tên là Chin'en. Cuối cùng, Trấn Viễn đã bị loại khỏi đăng bạ Hải quân vào năm 1911 và được bán phế liệu vào năm sau.

Thiết kế

Xung đột hải quân với các cường quốc phương Tây hồi đầu thế kỷ 19 như trong cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất và lần thứ hai, trong đó các tàu chiến châu Âu đã đánh tan nát hạm đội thuyền buồm truyền thống của Trung Quốc, đã thúc đẩy một chương trình tái vũ trang lớn bắt đầu từ những năm 1880 dưới thời Tổng đốc của tỉnh Trực Lệ, Lý Hồng Chương. Các cố vấn của Hải quân Hoàng gia Anh cũng đã hỗ trợ chương trình này, và mớ tàu đầu tiên - bao gồm nhiều tàu pháo bọc thép và hai tàu tuần dương nhỏ-đuowjc mua từ các xưởng đóng tàu của Anh Sau một cuộc tranh chấp với Nhật Bản trên đảo Đài Loan, Hải quân Trung Quốc đã quyết định mua các thiếp giáp bọc thép hạm lớn để đối phó với các tàu bọc thép và lớp Kongō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đang được đóng. Anh không muốn bán tàu chiến cỡ đó cho Trung Quốc vì sợ xúc phạm Đế quốc Nga, mặc dù đã bán tàu tương tự của Nhật Bản, nên Lý Hồng Chương đã chuyển sang mua từ xưởng đóng tàu của Đức.

Kaiserliche Marine(Hải quân Đế quốc) của Đức vừa hoàn thành bốn chiếc tàu bọc thép lớp Sachsen, và đề nghị bán cho Trung Quốc tàu chế tạo theo thiết kế sửa đổi của lớp đó. Lý Hồng Chương muốn mua tới 12 chiếc tàu bọc thép cỡ lớn, nhưng điều kiện tài chính eo hẹp đã buộc giảm đơn đặt hàng còn ba chiếc tàu, trong đó chiếc bị giảm kích thước thành tàu tuần dương bảo vệ. Thay vì lắp các khẩu súng chính trên một cặp bệ súng mở cố định như trong lớp Sachsen, thiết kế mới để đặt bốn khẩu súng trong hai bệ xoay nằm về phía trước con tàu. Hai chiếc tàu của lớp, và , được chế tạo với chi phí khoảng 6,2 triệu Mark vàng Đức, tương đương với khoảng 1 triệu lượng bạc Trung Quốc.

Đặc điểm chung và máy móc

Các tàu thuộc lớp Đinh Viễn dài ở mặt nước và tổng thể. Chúng có một chiều ngang và đáy cao . Các tàu trọng tải choãn nước như thiết kế và lên tới khi đầy tải. Vỏ tàu được chế tạo từ thép và được chế tạo với một mũi tông tàu. Tàu được điều khiển bởi một bánh lái duy nhất. Mỗi tàu có một đội thủy thủ gồm 363 sĩ quan và thủy thủ. Tàu được trang bị hai cột buồm quân sự hạng nặng, một ở ngay trước súng chính và một phía sau. Một boong dạo bao phủ các tháp pháo và chạy từ trước đến các ống khói. Mỗi chiếc tàu mang theo một cặp tàu phóng lôi hạng hai ở phía xa của các ống khói, cùng với các cần cẩu để hạ chúng.

và , được trang bị một cặp động cơ hơi nước dạng thùng ba xi-lanh nằm ngang, mỗi động cơ lái một cánh quạt trục vít duy nhất. Hơi nước được cung cấp bởi tám trụ nồi hơi được nối với một cặp ống khói giữa tàu. Các nồi hơi được chia thành bốn phòng nồi hơi. Các động cơ được đánh giá ở mức cho tốc độ tối đa , mặc dù cả hai tàu đều vượt quá con số này khi chạy thử nghiệm, với chiếc Trấn Viễn, đạt và vận tốc Các tàu chở than thường ngày và có thể lên tới ; điều này cho phép bán kính hoạt động với tốc độ . Cả hai tàu đều được gắn buồm cho chuyến đi từ Đức đến Trung Quốc, mặc dù sau đó chúng đã được gỡ bỏ.

Vũ khí và giáp

trái|nhỏ| Tổng quan về cách bố trí của một chiếc tàu bọc thép lớp Định Viễn Các tàu được trang bị bộ pháo chính gồm bốn pháo /25 li, gắn trong hai bệ súng. Các bệ súng có khả năng là đã được sắp xếp khác nhau trên Định ViễnTrấn Viễn, nhưng súng của cả hai tàu đều được đặt tại vị trí giống hệt nhau, với tháp mạn trái nằm phía trước của pháo mạn phải. Các khẩu súng này Pháo Krupp . Pháo phụ bao gồm hai khẩu 15 cm được gắn riêng lẻ, một trên mũi tàu và một trên đuôi tàu. Ba ống phóng ngư lôi cũng được trang bị trên tàu; một cái được gắn ở đuôi tàu và hai cái còn lại được đặt phía trước pháo chính, tất cả đều ở trên mặt nước.

Giáp đai của lớp dày , trong khi giáp cho các tháp pháo chính dày . Boong tàu bọc thép dày chạy toàn bộ chiều dài của tàu trong các đầu không được bảo vệ. Tháp chỉ huy đã mạ thêm giáp, trong khi các khẩu 15 cm mỗi khẩu súng đều có tháp pháo có giáp có độ dày từ .

Các tàu

Lịch sử hoạt động

Hoàn thành vào lần lượt đầu năm 1883 và 1884, Định ViễnTrấn Viễn được thủy thủ đoàn Đức đưa đến Trung Quốc, nhưng bị trì hoãn — chủ yếu do Pháp sau khi cuộc chiến tranh Trung-Pháp bùng nổ vào năm 1884— buộc phải ở lại Đức. Một thủy thủ đoàn người Đức đã đưa Định Viễn ra ngoài để thử nghiệm bắn trên biển, thì khiến của sổ vỡ xung quanh trên tàu, cùng với hư hại cho một ống khói. Sau khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4 năm 1885, hai chiếc tàu bọc thép được phép khởi hành đến Trung Quốc cùng với chiếc Tế Viễn. Ba tàu đã đến Trung Quốc vào tháng 10 và chúng chính thức được đưa vào Hạm đội Bắc Duong. Định Viễn là soái hạm của đội hình mới, vào thời điểm chiến tranh Trung-Nhật Bản đầu tiên, cô được đặt dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Lưu Bộ Thiêm, trong khi Đô đốc Đinh Nhữ Xương cũng được chỉ huy trên tàu. Trấn Viễn nằm dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Lâm Thái Tăng. Khi chiến tranh nổ ra vào năm 1894, cả hai tàu thuộc lớp Đinh Viễn lần đầu tiên xung trận chiến tại Trận chiến Hoàng Hải vào ngày 17 tháng 9.

Hai chiếc tàu đã hình thành phần chính giữa chiến tuyến Trung Quốc, với mệnh lệnh cho chúng hoạt động hỗ trợ lẫn nhau. Một phát bắn từ Đinh Viễn ở khoảng cách 5500 m cách hạm đội Nhật Bản là phát bắn mở màn của hạm đội Trung Quốc, đã phá hủy đài chỉ huy của chính nó và làm Đô đốc và đội của ông bị thương. Cột báo hiệu của cô cũng bị vô hiệu hóa, khiến hạm đội Trung Quốc hoạt động hoàn toàn trong các cặp đã được chỉ định trong suốt trận chiến. Trong suốt trận chiến, phần chính của hạm đội Nhật Bản tập trung hỏa lực vào hai tàu bọc thép, nhưng hai tàu vẫn không sao sau khi bên Nhật rút quân khi bóng tối đến gần. Mỗi con tàu đã bị trúng hàng trăm quả đạn pháo, nhưng giáp đai chính của chúng không bị phá hủy. Trấn Viễn đã bị hư hại vào ngày 7 tháng 11 sau khi đâm vào một rạn san hô không được đánh dấu, đưa cô ra khỏi hoạt động cho đến tháng một sau đó. phải|nhỏ| Trấn Viễn khi phuc vụ của Nhật Bản dưới tên Chin'en Cả hai tàu đều kẹt ở bến cảng trong Trận Uy Hải Vệ vào đầu năm 1895, với chỉ Trấn Viễn có khả năng đi biển. Chúng không thể ngăn chặn việc chiếm đóng các công sự của cảng bởi quân Nhật và trải qua các cuộc tấn công hàng đêm bằng tàu phóng lôi. Đinh Viễn bị trúng ngư lôi và bắt đầu chìm. Cô nhanh chóng tự mắt cạn tại bãi biển, nơi cô định cư xuống bùn và tiếp tục được sử dụng như một pháo đài phòng thủ. Cờ của Đô đốc Đinh Nhữ Xương sau đó đã được chuyển qua Trấn Viễn. Sau khi Nhữ Xương tự sát, việc đầu hàng cảng và hạm đội đã được thu xếp. Đinh Viễn bị lực lượng Nhật Bản cho nổ, vì họ không thể cứu vãn cô, mặc dù có một khả năng sau một nhân chứng nhìn thấy cô có thể đã bị bên Trung Quốc đặt mìn.

Trấn Viễn sau đó được đưa vào hoạt động trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản với tên Chin'en, trở thành thiết giáp hạm thực sự đầu tiên trong hạm đội. Cô đã được thêm vào đăng bạ Hải quân vào ngày 16 tháng 3, và sau đó được tái vũ trang. Khi các thiết giáp hạm khác của Nhật Bản bắt đầu được đưa vào hạm đội, cô được đánh giá lại là thiết giáp hạm hạng hai vào ngày 21 tháng 3 năm 1898, sau đó là tàu phòng thủ bờ biển hạng nhất vào ngày 11 tháng 12 năm 1905. Trong thời gian dưới cờ Nhật Bản, cô tham gia vào cuộc chiến tranh Nga-Nhật với vai trò là tàu hộ tống. Cô bị tước khỏi đăng bạ vào ngày 1 tháng 4 năm 1911 và được sử dụng làm mục tiêu cho thiết giáp-tuần dương . Sau đó, cô đã được bán để lấy phế liệu vào ngày 6 tháng 4 năm 1912, trong khi mỏ neo của cô đã được bảo quản gần thành phố Kobe.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Lớp **_Đinh Viễn_** () bao gồm một cặp tàu chiến bọc thép — và — được đóng cho Hải quân Đế quốc Trung Quốc vào những năm 1880. Chúng là những con tàu đầu của
sau này đổi tên là là tàu chiến bọc thép đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đóng tại Bordeaux, Pháp vào năm 1864 cho Hải quân Liên minh Hoa Kỳ dưới tên
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst**_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc _Scharnhorst_ và _Gneisenau_, chúng lớn hơn lớp
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Lớp tàu tuần dương _Prinz Adalbert**_ là một lớp tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu những năm 1900. Hai chiếc thuộc lớp này đã
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**_Admiral Graf Spee_** là một trong những tàu chiến nổi tiếng nhất của Hải quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với thiết giáp hạm _Bismarck_. Kích cỡ của nó bị giới
**Lớp thiết giáp hạm _Brandenburg**_ bao gồm bốn chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên của Hải quân Đế quốc Đức. Chúng cũng là những tàu chiến đầu tiên thuộc mọi kiểu tàu
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**Lớp tàu tuần dương _York**_ là lớp thứ hai và cũng là lớp tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng trang bị pháo 203 mm (8 inch) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế
**Lớp tàu sân bay _Colossus**_ bao gồm những tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mười sáu chiếc đã được vạch kế
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**SMS _Scharnhorst**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. _Scharnhorst_ là chiếc dẫn đầu cho
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Lớp tàu tuần dương _Roon**_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, _Roon_
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Lớp tàu sân bay _Midway**_ của Hải quân Hoa Kỳ là một trong những thiết kế tàu sân bay có thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử. Được đưa ra hoạt động lần
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Khinh hạm** **lớp Fridtjof Nansen** (còn được gọi tắt là **lớp Nansen**) là lớp khinh hạm mang tên lửa dẫn đường chủ lực của Hải quân Hoàng gia Na Uy (RNN). Lớp tàu được đặt
**Lớp thiết giáp hạm _Revenge**_ bao gồm năm thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, được đặt hàng vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp mở màn, và
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
**Tàu frigate** () là một loại tàu chiến. Từ ngữ này được dùng cho nhiều tàu chiến với nhiều kích cỡ và vai trò khác nhau trong vài thế kỷ gần đây. Theo vai trò
**Lớp thiết giáp hạm _Pennsylvania**_ là một lớp thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ; là loạt hai chiếc thứ bảy được thiết kế trên căn bản mở rộng lớp lớp
**Tàu khu trục lớp Hatsuyuki** (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục
**Tàu ngầm lớp Oyashio** (tiếng Nhật: **_おやしお_**) là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ điện-diesel do Nhật Bản tự phát triển và được đưa vào biên chế Lực lượng phòng vệ
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**Lớp khinh hạm _Formidable**_ là một lớp khinh hạm tàng hình đa chức năng. Đây là các tàu chiến mặt nước mới nhất được đưa vào biên chế của Hải quân Cộng hòa Singapore (RSN)