✨Sông Hồng

Sông Hồng

Sông Hồng (hay Hồng Hà, còn có các tên gọi khác là sông Cái, sông Cả, sông Thao, Nhị Hà, Nhĩ Hà) là con sông có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc chảy qua miền Bắc Việt Nam và đổ ra vịnh Bắc Bộ, trên đất Việt Nam dài 556 km. Đây là dòng sông quan trọng của nền văn hóa lúa nước Việt Nam.

Tên gọi

Sông được gọi là Sông Hồng (chữ Nôm: 瀧紅) hay Hồng Hà (chữ Hán: 紅河) do con sông có màu đỏ nhạt. Sông cũng hay được gọi Sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï, tuy nhiên họ thường dùng tên gọi Fleuve Rouge hơn) bởi sông Hồng là khởi nguyên cho nền Văn minh lúa nước của Việt Nam. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang (元江, bính âm: yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江).

Dòng chảy và lưu lượng

Dòng chính

Dòng chính (chủ lưu) của sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chi lưu phía Đông bắt nguồn từ vùng núi huyện Tường Vân. Chủ yếu nó chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái (傣 Dăi), Di (彞), Cáp Nê (哈尼 Hani, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì). Đến biên giới Việt - Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng 80 km; bờ Nam sông thuộc Việt Nam, bờ Bắc vẫn là lãnh thổ Trung Quốc.

Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam là tại xã A Mú Sung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam. Đến phía Đông thành phố Lào Cai, sông thành ranh giới giữa thành phố và huyện Bảo Thắng, đi qua Bảo Thắng và Bảo Yên, dọc theo ranh giới Bảo Yên và Văn Bàn.

Sông chảy qua Văn Yên rồi Trấn Yên (Yên Bái) và thành phố Yên Bái, sang Hạ Hòa (Phú Thọ), dọc theo ranh giới giữa Hạ Hòa, Thanh Ba, thị xã Phú Thọ, Lâm Thao, Việt Trì ở tả ngạn và Cẩm Khê, Tam Nông ở hữu ngạn.

Sông chảy dọc theo ranh giới giữa tỉnh Vĩnh Phúc (các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc) ở tả ngạn và Hà Nội (các huyện, thị xã Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) ở hữu ngạn.

Sông chảy qua Hà Nội với các quận, huyện Đan Phượng, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng, Thanh Trì ở hữu ngạn và Mê Linh, Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm ở tả ngạn.

Sông thành ranh giới tự nhiên giữa:

  • Hà Nội (Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên) ở hữu ngạn và Hưng Yên (Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động) ở tả ngạn; *Hà Nội (Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) ở hữu ngạn và Vĩnh Phúc (Vĩnh Tường, Yên Lạc) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Duy Tiên, Lý Nhân) ở hữu ngạn và Hưng Yên (thành phố Hưng Yên) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Lý Nhân) ở hữu ngạn và Thái Bình (Hưng Hà, Vũ Thư) ở tả ngạn;
  • Nam Định (thành phố Nam Định, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy) ở hữu ngạn và Thái Bình (Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải) ở tả ngạn và đổ ra Biển Đông ở cửa Ba Lạt.

Hệ thống sông Hồng Bản đồ địa lý Sông Hồng và khu vực [[Bắc Bộ Việt Nam|Bắc Bộ]]

Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145 km thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai tỉnh đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu tốc chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này.

Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.

Phụ lưu

Các phụ lưu của Sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc qua Việt Nam tới biển là: Ngòi Phát (Lào Cai) Ngòi Bo (Lào Cai) Ngòi Nhù (Lào Cai) Ngòi Hút (Yên Bái) Ngòi Thia (Yên Bái) Ngòi Lao (Yên Bái) Ngòi Giành (Phú Thọ) Sông Cầu Tây (Phú Thọ) Ngòi Cỏ (Phú Thọ) Sông Bứa (Phú Thọ) *Sông Đà* với các phụ lưu: Nậm Ma, Nậm Củn, Nậm Ngòa, Nậm Pằn, Phi Châu, Nậm Táng Thủm, Nậm Hỏ Sa, Nậm Khục, Nậm Vinh, Nậm Han, Nậm Kha A, Nậm Kha Ú, Nậm Luồng, Nậm Bum, Nậm Nhạt, Nậm Na, Nậm Mức, Nậm Ma, Nậm Muội, Nậm Giôn, Nậm Mu, Suối Chiến, Suối Hội, Suối Chim, Suối Sập, Sông Tắc, Suối Khoáng, Suối Tân, Suối Trầm, Suối Vàng, Suối Cái, Suối Lặt,... Sông Lô** với các phụ lưu: Thanh Thủy, Nậm Seởu, Sông Miên, Nậm Ma, Nậm Dầu, Suối Chang, Nậm Ngần, Nậm Mu, Ngòi Quang, Suối Pha, Ngòi Sảo, Sông Con, Ngòi Lắc, Lắc Con, Sông Thụt, Ngòi Mục, Gốc Gạo, Linh Kiêm, Suối Cả, Ngòi Lũ, Ngòi Dăm, sông Gâm, ngòi Là, sông Chảy, sông Đồng, suối Cái, sông Phó Đáy.

Chi lưu

Từ Ngã ba Hạc xuống hạ lưu thì Sông Hồng không nhận thêm nước nữa mà bắt đầu rót nước sang các phân lưu. Sông Đáy: rút nước sông Hồng tại 2 cống Cẩm Đình và Tắc Giang (Hà Nội) Sông Đuống chảy từ Hà Nội (chỗ ngã ba Đông Anh, Tây Hồ, Long Biên) sang Phả Lại ở phía đông thuộc Hải Dương Sông Luộc nối sông Hồng từ phía nam thành phố Hưng Yên sang sông Văn Úc tại Quý Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng Sông Phủ Lý nối sông Hồng sang sông Đáy Sông Nam Định nối sông Hồng sang sông Đáy Sông Ninh Cơ (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ). *Sông Trà Lý nối sông Hồng cắt qua tỉnh Thái Bình đổ ra cửa Trà Lý tại Đông Hải, Tiền Hải, Thái Bình.

Lợi ích và nguy cơ

Nước Sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của Sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn/nǎm tức là gần 1,5 kg/m³ nước.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc 2 tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu 2 bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.

Sử sách đã ghi lại hàng trăm vụ vỡ đê lớn nhỏ ở sông Hồng. Bắt đầu từ nhà Lý trở đi (năm 1010), quốc sử mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lại những năm lụt lớn: Lý Nhân Tông năm thứ 7, Mậu Ngọ 1078, nước lụt tràn ngập trong thành. Cũng triều Lý Nhân Tông năm thứ 50, Tân Sửu 1121, mùa hạ tháng 5, nước to tràn vào đến ngoài cửa Đại Hưng, dù đê Cơ Xá được đắp để bảo vệ kinh thành từ năm 1108. Năm Bính Thân 1236, triều Trần Thái Tông năm thứ 12, tháng 6 vỡ đê, nước ngập cung Lệ Thiên. Hai năm sau, năm Mậu Tuất 1238, mùa thu tháng 7, nước to, đê vỡ, ngập cung Thưởng Xuân. Đến năm Quý Mão 1243, nước lụt còn phá vỡ cả thành Đại La. Năm Canh Ngọ 1270, triều Trần Thánh Tông, mùa thu tháng 7 nước lũ to. Các đường phố và kinh thành đều phải đi lại bằng thuyền. Năm 1445, triều Lê Nhân Tông, nước sông lên to, ngập vào trong thành sâu đến 3 thước, lúa mạ tổn hại đến 1/3 cả nước. Năm Đinh Hợi 1467, Lê Thánh Tông năm thứ 7, nước dâng cao khiến đê điều bị vỡ, thóc lúa bị ngập, nhiều người chết đói. Năm Tân Hợi 1491, tháng 8 mùa thu, mưa rất to suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ lên dữ dội, Điện Kính Thiên nước ngập sâu 2 thước 2 tấc. Năm Canh Ngọ 1630, triều Lê Thần Tông, mùa thu tháng 8, nước sông tràn vào, nước chảy trên đường phố Cửa Nam như thác, phố phường nhiều người chết đuối. Liên tiếp các năm Tân Mùi 1631, Nhâm Thân 1632, cung điện nhà vua đều bị ngập lụt. Thời Gia Long năm 1802, nước lớn đê vỡ. Năm 1809, lũ lụt tràn ngập. Năm Giáp Thìn 1844, nước sông lên đến hơn 10 thước, đồng ruộng Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định, Quảng Yên đều bị ngập. Trong các triều vua Nguyễn thì triều Tự Đức có nhiều lũ lụt nhất, đồng bằng Bắc bộ vỡ đê liên miên vì đê điều ít được tu sửa. Đê Văn Giang (Hưng Yên giáp Hà Nội) vỡ 18 năm liền, từ 1863 - 1886, dân cư phiêu bạt, xóm làng trở thành đầm lầy. Thời Pháp thuộc, cứ 3 năm thì có 1 năm đê vỡ. Các trận lụt năm 1893, năm 1915 làm bốn tỉnh hữu ngạn sông Hồng ngập chìm trên 3 tháng. Trong vòng 100 năm (kể từ năm 1901), đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ lớn. Các trận lũ lớn này đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao điểm của mùa mưa bão. Năm 1926, ngày 29 tháng 7, lũ lớn làm vỡ đê nhiều nơi, tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt do vỡ đê khoảng 100.000 ha. Trận lũ lớn vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312.000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người. *Trận lũ lớn gần nhất là năm 1969 và 1971, làm vỡ đê hàng loạt, hơn 500 người chết, gần 100.000 người bị ảnh hưởng nặng vì trận lũ này.

Sau năm 1971, do đê điều được củng cố và việc xây dựng các kênh đào, đập nước, đập thủy điện chia lũ nên lũ lụt không xảy ra nữa, tuy nhiên công tác canh phòng đê sông Hồng vẫn phải được duy trì liên tục, bởi nếu xảy ra sự cố thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Khai thác thủy điện

Hoàng hôn trên sông Hồng, nhìn từ cầu Long Biên. Nguồn thủy năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào, điều kiện khai thác thuận lợi nhất là công trình trên sông nhánh, cho đến nay đã xây dựng các trạm thủy điện sau:

Số lượng các trạm phát điện có công suất lắp máy dưới 10 MW là 843 với tổng công suất lắp đặt là 99,4 MW và 1 trạm thủy điện loại vừa ở Lục Thủy Hà có công suất 57,5 MW, như vậy mới khai thác chưa đến 5% khả năng thủy điện có thể khai thác trong lưu vực. Tổng công suất các trạm thủy điện trong lưu vực có thể khai thác đạt 3.375 triệu kW trong đó dòng chính sông Hồng chỉ chiếm 23% còn 77% tập trung ở các sông nhánh.

Nét nổi bật về khai thác thủy điện lưu vực sông Hồng là:

  • Tập trung khai thác thủy điện trên các sông nhánh có đầu nước cao lưu lượng nhỏ, kiểu đường dẫn chuyển nước sang lưu vực địa hình thấp là kinh tế nhất.
  • Dòng chính sông Hồng chảy theo đường thẳng, ít gấp khúc và chêch lệch thủy đầu tập trung không nhiều vì vậy phần lớn khai thác kiểu thủy điện sau đập, có nhiều khó khăn vì núi cao khe sâu phải làm đập cao để tạo đầu nước sẽ không kinh tế.
  • Các thủy điện trên sông nhánh thường xa khu dân cư và đất canh tác rất phân tán, làm thế nào để công trình thủy điện đồng thời kết hợp cấp nước cho sản xuất và đời sống của nông dân là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết đạt hiệu ích kinh tế.

Nhưng do lượng phù sa lớn, làm nông dòng sông và lưu lượng chảy sẽ kém nên sẽ làm giảm hiệu quả hay phá hủy các công trình thủy điện trong tương lai gần đây.

Lưu lượng

Bản thống kê lưu lượng nước qua từng tháng được thống kê trong bảng sau:

Các tỉnh, thành phố chảy qua

  • ** Vân Nam
  • Lào Cai Yên Bái Vĩnh Phúc Phú Thọ Hà Nội Hưng Yên Hà Nam Nam Định Thái Bình Hải Dương

Các cây cầu đường bộ vượt sông

Trên lãnh thổ Việt Nam (theo thứ tự từ Bắc đến Nam).

Hiện tại

  • Cầu Kim Thành, Lào Cai (Việt Nam) - Vân Nam (Trung Quốc)
  • Cầu Cốc Lếu, hai bờ TP. Lào Cai (Lào Cai)
  • Cầu Phố Mới, hai bờ TP. Lào Cai (Lào Cai)
  • Cầu Giang Đông, hai bờ TP. Lào Cai (Lào Cai)
  • Cầu Phố Lu, hai bờ Bảo Thắng (Lào Cai)
  • Cầu Bảo Hà, Văn Bàn - Bảo Yên (Lào Cai)
  • Cầu Trái Hút, hai bờ Văn Yên (Yên Bái)
  • Cầu Mậu A, hai bờ Văn Yên (Yên Bái)
  • Cầu Cổ Phúc, hai bờ Trấn Yên (Yên Bái)
  • Cầu Yên Bái, hai bờ TP. Yên Bái (Yên Bái)
  • Cầu Bách Lẫm, hai bờ TP. Yên Bái (Yên Bái)
  • Cầu Tuần Quán, hai bờ TP. Yên Bái (Yên Bái)
  • Cầu Giới Phiên, hai bờ TP. Yên Bái (Yên Bái)
  • Cầu Văn Phú, hai bờ TP. Yên Bái (Yên Bái)
  • Cầu Hạ Hòa, hai bờ Hạ Hòa (Phú Thọ)
  • Cầu Sông Hồng, Cẩm Khê - Thanh Ba (Phú Thọ)
  • Cầu Ngọc Tháp, Tam Nông - TX. Phú Thọ (Phú Thọ)
  • Cầu Phong Châu, Tam Nông - Lâm Thao (Phú Thọ)
  • Cầu Văn Lang, Hà Nội - Phú Thọ
  • Cầu Vĩnh Thịnh, Hà Nội - Vĩnh Phúc
  • Cầu Thăng Long, Bắc Từ Liêm - Đông Anh (Hà Nội)
  • Cầu Nhật Tân, Đông Anh - Tây Hồ (Hà Nội)
  • Cầu Long Biên, Long Biên - Hoàn Kiếm (Hà Nội)
  • Cầu Chương Dương, Long Biên - Hoàn Kiếm (Hà Nội)
  • Cầu Vĩnh Tuy, Long Biên - Hai Bà Trưng (Hà Nội)
  • Cầu Thanh Trì, Hoàng Mai - Long Biên - Gia Lâm (Hà Nội)
  • Cầu Yên Lệnh, Hưng Yên - Hà Nam
  • Cầu Hưng Hà, Hưng Yên - Hà Nam
  • Cầu Thái Hà, Thái Bình - Hà Nam
  • Cầu Tân Đệ, Nam Định - Thái Bình

Tương lai

  • Cầu Vân Phúc, Hà Nội - Vĩnh Phúc
  • Cầu Hồng Hà, Bắc Từ Liêm - Mê Linh (Hà Nội)
  • Cầu Thượng Cát, Bắc Từ Liêm - Đông Anh, Mê Linh (Hà Nội)
  • Cầu Tứ Liên, Tây Hồ - Đông Anh (Hà Nội)
  • Cầu Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm - Long Biên - Hai Bà Trưng (Hà Nội)
  • Cầu Ngọc Hồi, Hà Nội - Hưng Yên
  • Cầu Mễ Sở, Hà Nội - Hưng Yên
  • Cầu Mai Động, Hà Nội - Hưng Yên
  • Cầu Sa Cao, Nam Định - Thái Bình
  • Cầu Cồn Nhất, Nam Định - Thái Bình
  • Cầu Thái Định, Nam Định - Thái Bình

Các hình ảnh về sông Hồng

Tập tin:Yuanyang-to-honghe-1.jpg|Sông Hồng, đoạn chảy qua Nguyên Dương, Vân Nam, Trung Quốc. Tập tin:Laocai01.JPG|Sông Hồng đoạn chảy qua Lào Cai, Việt Nam Tập tin:Sông Hồng, đoạn qua cầu Vĩnh Tuy.JPG|Sông Hồng mùa cạn (đoạn qua cầu Vĩnh Tuy), chụp ngày 31.10.2009 Tập tin:Đê sông Hồng.JPG|Đê sông Hồng Tập tin:Long bien bridge.jpg|Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng Tập tin:Chuong Duong Bridge.JPG|Cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng
👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sông Hồng** (hay **Hồng Hà**, còn có các tên gọi khác là **sông Cái, sông Cả**, **sông Thao**, **Nhị Hà**, **Nhĩ Hà**) là con sông có tổng chiều dài là 1.149 km bắt nguồn từ
Vị trí vùng đồng bằng sông Hồng (màu đỏ) trên bản đồ Việt Nam
Các tiểu vùng ở Bắc Bộ trước năm 2013, khi Vùng Đồng bằng sông Hồng chưa có tỉnh Quảng Ninh **Đồng
Vùng sinh thái phù sa ven biển đặc trưng ở bãi ngang - [[cồn nổi (Kim Sơn, Ninh Bình)]] Vị trí 3 tiểu khu (màu đỏ) của khu dự trữ sinh quyển thế giới châu
**Hệ thống sông Hồng** là một mạng lưới các con sông, tập hợp quanh con sông chính là sông Hồng, góp nước cho sông Hồng hoặc nhận nước của con sông này đổ ra Biển
Đê tả sông Hồng, đoạn gần chợ Bồ Đề. Mặt đê là đường giao thông **Đê sông Hồng**, gọi đầy đủ là **hệ thống đê sông Hồng** là một trong 4 hệ thống đê điều
Bản đồ các vùng du lịch ở Việt Nam.PNG phải| Đền Kiếp Bạc - Hải Dương [[Hoàng thành Thăng Long ở Hà Nội]] phải|Quần đảo Cát Bà ở [[Hải Phòng]] **Vùng đồng bằng sông Hồng
**Trận lụt đồng bằng sông Hồng năm 1971** (hay còn được biết đến với tên gọi **Đại hồng thủy 1971**) là một đợt lũ lụt rất lớn xảy ra ở các tỉnh thuộc đồng bằng
**Nguyên Giang** (tiếng Trung: 元江) là một đoạn thuộc sông Hồng chảy qua lãnh thổ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Do nước sông về mùa lũ có màu đỏ phù sa nên trước đây còn
**Các đơn vị hành chính của Việt Nam** thuộc các tỉnh thành Đồng bằng sông Hồng (tức là thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định,
Hệ thống sông Châu Giang. Sông Hồng Thủy tại đây viết là Hongshui. **Sông Hồng Thủy** hay **Hồng Thủy hà** (tiếng Trung: 红水河) là một đoạn sông ở phía thượng nguồn sông Tây Giang, chảy
**Sông Đáy**, còn gọi là **Hát Giang** (喝江) là dòng sông chảy từ phía Tây Hà Nội, xuyên qua tỉnh rồi thành ranh giới giữa Ninh Bình và trước khi đổ ra biển Đông tại
**Sông Châu Giang**, còn gọi là **sông Châu**, là một con sông thuộc hệ thống sông Hồng - sông Thái Bình của miền Bắc Việt Nam, nằm trọn trong địa phận tỉnh Hà Nam, Việt
Sông Hồng là trung tâm của đới đứt gãy Sông Hồng**Đới đứt gãy Sông Hồng** (chữ Anh: _Red River Fault_), hoặc gọi là **Đới kiến tạo Ai Lao Sơn - Hồng Hà**, là đới kiến
Sông Đà. **Sông Đà** (còn gọi là **sông Bờ** hay **Đà Giang**) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông dài 927 km (có tài liệu ghi 983 km hoặc 910 km), diện tích
thumb|Sông Lô đoạn chảy qua phường [[Hà Giang (thành phố)|Hà Giang 1.]] thumb|Sông Lô đoạn chảy qua phường [[Nông Tiến.]] **Sông Lô** là phụ lưu cấp 1 ở tả ngạn sông Hồng, chảy từ Trung
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
**Sông Đuống**, tên chữ gọi là **sông Thiên Đức** hay **Thiên Đức Giang**, là một con sông dài 68 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình. Sông Đuống là 1 nhánh chảy của sông Hồng,
**Hồng Hà** là một phường thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Phường được hình thành trên cơ sở sáp nhập nguyên trạng các phường Chương Dương, Phúc Tân cũ của quận Hoàn Kiếm và
**Bể trầm tích sông Hồng** nằm ở Tây Bắc biển Đông, giữa duyên hải Bắc Trung Bộ Việt Nam và đảo Hải Nam. Bể có diện tích diện tích khoảng 110.000 km vuông, bao gồm toàn
Sông Nam Định nhìn từ trên cầu Đò Quan **Sông Nam Định**, với tên khác là **sông Đào**, là một phân lưu của sông Hồng và phụ lưu của sông Đáy. Nó đưa một phần
MENSỐNG HỒNG YẾN-TIÊU HÓA KHỎE, TRẺ ĂN NGON*Quycách:Hộp 20 gói. Mỗi gói 30g*Hạnsử dụng: *Thànhphần:- Hồng yến- Men Bacillus- Phụ liệu: bột kem, đườngSản xuất theo công nghệ vi sinh Hàn Quốc*Đối tượng sử dụng:-Dùngcho
1. THÔNG TIN SÁCH Tên sách CHIẾN TRANH TIỀN TỆ TẬP 5 Thể loại Kinh tế Tác giả Song Hong Bing Người dịch Đặng Hồng Quân Khổ sách 1624 Số trang 684 Hình thức Bìa
1. THÔNG TIN SÁCH Tên sách CHIẾN TRANH TIỀN TỆ TẬP 5 Thể loại Kinh tế Tác giả Song Hong Bing Người dịch Đặng Hồng Quân Khổ sách 1624 Số trang 684 Hình thức Bìa
**Sông Ninh Cơ** (còn gọi là **Lạch Lác** hay **Cường Giang**) là một phân lưu ở hạ nguồn của sông Hồng chảy qua tỉnh Nam Định. Điểm bắt đầu của nó là nơi tiếp giáp
**Bể than đồng Bằng Sông Hồng** là một bể than có trữ lượng lớn nằm ở bắc Việt Nam thuộc đồng bằng sông Hồng, ước tính khoảng 210 tỉ tấn than. 90% trữ lượng than
**Sông Trà Lý** là một phân lưu của sông Hồng chảy ngang qua tỉnh Thái Bình gần như theo hướng Tây Tây Bắc-Đông Đông Nam với một vài đoạn uốn cong, chiều dài khoảng 67 km.
**Sông Lũng Pô** (龙脖河) tên Việt cổ gọi là **Long Bồ/Bò** (滝𤙭), là phụ lưu cấp 1 của sông Thao, chảy qua các tỉnh Lai Châu và Lào Cai, Việt Nam . Sông là đường
Sông Hồng Tân là đơn vị chuyên cung cấp thực phẩm tươi sống và phục vụ suất ăn công nghiệp. Sông Hồng Tân luôn tâm niệm chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
**Sông Thao** (chữ Hánː 洮江) là dòng chính của sông Hồng, bắt nguồn từ Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, vào Việt Nam ở tỉnh Lào Cai, chảy đến ngã ba Hạc ở Việt
**Sông Tích** tên đầy đủ là **Tích Lịch Giang** (sông Sấm Sét) còn gọi là **sông Con** (khi so sánh với sông Hồng-sông Cái), là phụ lưu cấp I của sông Đáy, thuộc hệ thống
**Sông Nhuệ** hay **Nhuệ Giang** là một con sông nhỏ, phụ lưu của sông Đáy. Sông dài khoảng 76 km, chảy ngoằn ngoèo gần như theo hướng bắc Tây Bắc-Nam Đông Nam qua địa phận thành
**Sông Luộc**, xưa kia còn có tên chữ gọi là **sông Hải Triều, sông Phổ Đà, Đà Lỗ, sông Lục Đức** là một trong những con sông nối sông Hồng với sông Thái Bình .
thumb| Bản đồ thể hiện tương đối vị trí sông Hoàng **Sông Hoàng** là con sông thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, từng là con sông quan trọng chiến lược trong giao thông và phòng
Ruột chăn cao cấp Sông Hồng loại DÀY Kích thước - 150cm x 210cm giá 420.000 - 180cm x 210cm giá 530.000 - 190cm x 215cm giá 550.000 - 200cm x 220cm giá 580.000 Chất
Ruột chăn cao cấp Sông Hồng loại DÀY Kích thước - 150cm x 210cm giá 420.000 - 180cm x 210cm giá 530.000 - 190cm x 215cm giá 550.000 - 200cm x 220cm giá 580.000 Chất
Ruột chăn cao cấp Sông Hồng loại DÀY Kích thước - 150cm x 210cm giá 420.000 - 180cm x 210cm giá 530.000 - 190cm x 215cm giá 550.000 - 200cm x 220cm giá 580.000 Chất
Ruột chăn cao cấp Sông Hồng loại DÀY Kích thước - 150cm x 210cm giá 420.000 - 180cm x 210cm giá 530.000 - 190cm x 215cm giá 550.000 - 200cm x 220cm giá 580.000 Chất
**Nong Song Hong** () là một huyện (_amphoe_) ở phía nam của tỉnh Khon Kaen, đông bắc Thái Lan. ## Địa lý Các huyện giáp ranh (từ phía tây theo chiều kim đồng hồ) Phon,
**Ga Thung Song Hong** () là một nhà ga ở quận Lak Si, Bangkok. Nằm trên Tuyến SRT Đỏ Đậm. ## Lịch sử thumb|Nhà ga cũ nằm ở dưới tầng trệt cạnh nhà ga mới
**Sông Phó Đáy** là một phụ lưu bên tả ngạn của sông Lô, có thượng lưu và trung lưu chảy trên địa bàn vùng núi và trung du phía Bắc, còn hạ lưu chảy trên
**Sông Diêm Hộ**, một con sông nhỏ thuộc hệ thống sông Hồng chảy trong tỉnh Thái Bình . Sông được tách ra từ sông Luộc tại địa phận xã Quỳnh Thọ (Quỳnh Phụ) chảy ngoằn
**Sông Bá Kết** hay **sông Pạc Chí Hồ** là một sông trong lưu vực Nậm Thi thuộc Hệ thống sông Hồng, chảy ở huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai, Việt Nam . Sông Bá Kết
CHIẾN TRANH TIỀN TỆ - trọn bộ 4 tập Song Hong Bing Tập 1 Ai thật sự giàu nhất thế giới Tập 2 Sự thống trị của quyền lực tài chính Tập 3 Biên giới
HƯƠNG ƯỚC LÀNG CÔNG GIÁO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo từ khi du nhập vào Việt Nam thế kỷ XVII đến nay luôn đồng hành cùng dân
[Date 2023] Men Sống Hồng Sâm Lucky Way Hỗ Trợ Tiêu HóaCửa hàng tiêu dùng thông minh chuyên cung cấp các sản phẩm có chất lượng, hạn sử dụng xa cho khách hàng. Tất cả
Men sống Hồng Yến hộp 10 gói (#mensong, #loikhuanduongruot,#loikhuan)TIÊUHÓA KHỎE, TRẺ ĂN NGON*Quycách:Hộp 20 gói. Mỗi gói 30g*Thànhphần:- Hồng yến- Men Bacillus- Phụ liệu: bột kem, đườngSản xuất theo công nghệ vi sinh Hàn Quốc*Đốitượng
Đặc Trưng Văn Hóa Vùng ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Khẩu trang KF94 Sông Hồng Kích thước 24cm x 12cm x 12cm hộp 30c Màu sắc trắng Tác dụng kháng khuẩn 60h Xuất xứ Việt Nam
**Tia hồng ngoại** là bức xạ điện từ có bước sóng dài hơn ánh sáng nhìn thấy (mắt người có thể cảm nhận được màu sắc) nhưng ngắn hơn tia bức xạ vi ba. Vùng
thumb|Đường sông Tiền phía trên cầu Mỹ Thuận. thumb|Đường sông Son tấp nập ở Quảng Bình. **Đường sông Việt Nam** hay **đường thủy nội địa Việt Nam** là hệ thống các tuyến giao thông trên