✨Sithu Kyawhtin
Sithu Kyawhtin (, ; cũng gọi là Narapati Sithu (နရပတိ စည်သူ, )) là quốc vương cuối cùng của Ava từ năm 1551 đến năm 1555. Ông lên nắm quyền sau khi lật đổ Quốc vương Narapati III vào năm 1551, thành quả của cuộc nổi dậy kéo dài trong sáu năm của ông.
Trong thời kỳ làm quốc vương, ông có thể đoàn kết toàn bộ các thành viên của Liên minh những quốc gia của người Shan nhằm đối kháng trước một cuộc xâm chiếm tiềm tàng của Quốc vương Bayinnaung của vương triều Toungoo. Ông tìm kiếm một hòa ước với Bayinnaung song bị cự tuyệt. Liên minh do Ava lãnh đạo có thể đề kháng cuộc xâm chiếm ban đầu của Toungoo trong năm 1553 song không thể ngăn chặn một cuộc xâm chiếm lớn hơn vào một năm sau. Vị quốc vương vong quốc dành những năm còn lại của mình trong một khu đất tại Pegu (Bago). Ông đền đáp sự đối xử tốt này bằng cách trấn áp cuộc phản loạn năm 1565 tại kinh đô trong lúc Bayinnaung đang ở tại Chiang Mai. Ông được Bayinnaung trao nhiều vinh dự.
Thân thế
Theo biên niên sử Zatadawbon Yazawin thì Sithu Kyahtin là người Miến. Tuy nhiên, các sử gia thời thuộc địa là Arthur Purves Phayre và G.E. Harvey thì cho rằng ông là người Shan. Phayre còn nói rằng ông là một con trai của Sawlon I của Mohnyin, là người chinh phục Ava.
Thống đốc Salin
Những ghi chép biên niên sử thể hiện rõ rằng Sithu Kyawhtin là một đồng minh thân thiết với Mohnyin. Trong thập niên 1530, dưới sự trị vì của Quốc vương Thohanbwa của Mohnyin, Sithu Kyawhtin là thống đốc của Salin, một thành chiến lược ven sông Irrawaddy nằm cách khoảng 250 km về phía nam của Ava (Inwa). Quốc vương Narapati của Prome vào cuối thập niên 1530 gả em gái là Salin Mibaya cho Sithu Kyawhtin để hòa thân giữa hai quốc gia điều này thể hiện rằng Sithu Kyawhtin có lẽ là một nhân vật quyền lực trong triều đình của Thohanbwa. Sithu Kyawhtin có đóng góp trong nỗ lực chiến tranh của Ava chống Toungoo song để mất thành của mình cho quân Toungoo vào năm 1544. Trong chiến dịch mùa khô năm 1544–45, ông tái chiếm được Salin trong thời gian ngắn song đạo quân 3.000 người của ông cuối cùng chiến bại trước lực lượng Toungoo có quân số đông hơn. Ông chỉ có thể tẩu thoát, đơn thân tiến về phía tân đến vùng đồi Chin, nơi này đương thời thuộc nước Kale (Kalay)- một chư hầu của Mohnyin. Tại vùng đồi Chin, các tù trưởng địa phương phát hiện ra ông và họ đưa ông đến chỗ saopha (thủ lĩnh) của Kale, người này cho đưa ông đến Mohnyin. Tuy nhiên, sau những thất bại quân sự liên tiếp tạo cơ hội cho Toungoo đoạt được Trung Miến cho đến Pagan (Bagan), Sawlon II không còn chịu đựng được sự lãnh đạo của Hkonmaing. Trong tháng 4/5 năm 1545, Sawlon II phái Sithu Kyawhtin đem một đạo quân (5000 binh sĩ, 800 ngựa, 60 voi) đi lật đổ Hkonmaing.
Sithu Kyawhtin và đạo quân của ông tiếp quản thành Sagaing bên bờ tả của sông Irrawaddy ở ngay bên kia của Ava, song không thể chiếm được thành Ava được phòng vệ nghiêm ngặt.
Việc Sithu Kyawhtin giành được sự ủng hộ đại chúng và ngày càng độc lập trong các chính sách khiến chủ của ông là Sawlon II cảm thấy bị đe dọa. Khoảng năm 1548/49, Sawlon II hành quân đến Sagaing song nhận thấy rằng chư hầu danh nghĩa của mình nay có vị thế mạnh hơn nhiều. Hai anh em kết nghĩa họp gần chùa Ponnya Shin gần Sagaing, và giải quyết những khác biệt, Sawlon II chấp thuận lui quân, hai quân chủ vẫn là đồng minh. Ông có thể đã thúc đẩy tân vương của Toungoo là Bayinnaung tiến hành các chiến dịch nhằm khôi phục đế quốc. Thật vậy, Bayinnaung và quân của mình nỗ lực xâm chiếm Thượng Miến vào cuối tháng 9 trong lúc quân Sagaing của Sithu Kyawhtin đang bao vây Ava. Tuy nhiên, quân Toungoo quyết định đối phó với Pegu trước, và rút về. Ngay sau đó, Quốc vương Narapati III bỏ cuộc và chạy về phía nam với Bayinnaung. diễn ra khoảng tháng 10 năm 1551. Biết rằng Bayinnaung sẽ trở lại, ông lập tức tiến hành đảm bảo đoàn kết của toàn bộ các quốc gia trong liên minh, trong đó có cố quốc của Narapati III là Onbaung–Thibaw và Mohnyin. Đối diện với mối đe dọa hiện hữu, các quốc gia trong liên minh cam kết sự ủng hộ hoàn toàn của họ, gửi binh sĩ, lương thực vũ khí để chuẩn bị cho một cuộc xâm chiếm từ phía nam. Ông cũng nỗ lực trong ngoại giao với hy vọng có thể tránh được chiến tranh. Trong mùa khô 1552–1553, một đoàn sứ giả Ava do thống đốc của Saga Taung dẫn đầu đã đến Pegu (Bago), tại đây họ được tiếp đãi lịch thiệp từ triều đình Pegu, đoàn sứ giả Ava ở lại trong ba tháng song trở về trắng tay mà không có hòa ước.
Sithu Kyawhtin nay hoàn toàn chờ đợi chiến tranh, mặc dù nó đến sớm hơn ông nghĩ. Ngày 14 tháng 6 năm 1553, Bayinnaung phái 7000 tráng binh dưới quyền Thái tử Nanda và Minkhaung II của Toungoo đi xâm chiếm Thượng Miến. Bằng cách phát động chiến dịch trong mùa mưa, Toungoo hy vọng có thể đảm bảo yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên, Sithu Kyawhtin có đủ chuẩn bị (5000 binh sĩ), chặn quân Toungoo tại Tada-U trong khi các đồng minh của ông (Mohnyin, Mogaung, Momeit, Onbaung, và Bhamo) đến cứu viện với 12.000 binh sĩ. Quân Toungoo đối diện với mùa mưa nên triệt thoái.
Thời gian ngưng chiến kéo dài hơn một năm, đến tháng 11 năm 1554, quân Toungoo phát động một cuộc xâm chiếm theo hai lộ, một đi ngược thung lũng Sittaung và một đi ngược thung lũng Irrawaddy. Quân phòng thủ Ava được hỗ trợ của chín quân đội liên minh khác (Bhamo, Kale, Mogaung, Mohnyin, Momeik, Mone, Nyaungshwe, Theinni và Onbaung-Thibaw) song không thể ngăn được quân Toungoo, và thành Ava thất thủ vào ngày 22 tháng 1 năm 1555. Sithu Kyawhtin và năm bầy tôi của ông cải trang để thoát khỏi thành, và chạy về phía đông để gia nhập quân của thủ lĩnh Onbaung song bị bắt trên đường tại Mekkhaya. Quốc vương vong quốc sau đó bị đưa đến Pegu để sống lưu vong.
Sống tại Pegu
Tại Pegu, cựu vương được trao một khu đất với hơn 30 nô bộc. Ông là một trong bốn cựu vương (cùng Mobye Narapati của Ava, Mekuti của Lan Na và Maha Chakkraphat của Xiêm) được Bayinnaung vinh danh tại lễ khánh thành cung Kanbawzathadi mới tái thiết vào ngày 16 tháng 3 năm 1568.