✨Roald Amundsen

Roald Amundsen

Roald Engebreth Gravning Amundsen (16 tháng 7 năm 1872 - tháng 6 năm 1928) là một nhà thám hiểm người Na Uy. Ông dẫn đầu cuộc thám hiểm Nam Cực thành công đầu tiên vào khoảng giữa 1910 và 1912. Ông mất tích trong một chuyến đi cứu hộ tháng 6 năm 1928.

Thời niên thiếu

Amundsen sinh ra trong một gia đình Na Uy có truyền thống làm chủ tàu và thuyền trưởng ở Borge, gần Sarpsborg. Cha ông là Jens Amundsen. Là con thứ tư trong gia đình, mẹ ông ngăn cấm ông khỏi nghề biển của gia đình và tạo sức ép buộc ông phải trở thành một bác sĩ, một lời hứa mà Amulsen chỉ giữ đến khi bà mất. Bởi, đã từ lâu Amundsen giấu kín khát khao trở thành một nhà thám hiểm của mình, được ảnh hưởng bởi chuyến đi vượt Greenland của Fridtjof Nansen năm 1888 và chuyến thám hiểm thất bại của John Franklin. Ông khẳng định ước mơ này của mình ngay sau khi mẹ mất. Năm đó ông 21 tuổi.

Những chuyến bộ hành vùng Cực

Đoàn thám hiểm Nam Cực Bỉ 1897-1899

Amundsen làm trợ lý cho Adrien de Gerlache trong đoàn thám hiểm Nam Cực của Bỉ vào năm 1897-1899. Cùng với con tàu the Belgica, họ trở thành đoàn thám hiểm đầu tiên trú đông ở Nam Cực. Rủi thay, The Belgica, do vô ý hay cố ý, bị kẹt trong băng trên vĩ độ 70°30' Nam gần Alexander Land, về phía Tây bán đảo Nam Cực. Thủy thủ đoàn phải chịu đựng một mùa đông khắc nghiệt chủ yếu là vì khâu chuẩn bị bê bối. Theo phỏng đoán của Amundsen, vị bác sĩ người Mỹ của đoàn, American Frederick Cook, đã cứu sống họ bằng cách đi săn thú và cho họ ăn thịt sống, một bài học quan trọng cho những chuyến thám hiểm về sau.

Vượt lối thông Tây Bắc

Năm 1903, Amundsen dẫn đầu đoàn thám hiểm cùng với sáu người khác trên con tàu Gjøa, lần đầu tiên vượt thành công lối thông Tây Bắc (Northwest Passage) giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, là lối thông mà các nhà thám hiểm từ thời Christopher Columbus, John Cabot, và Henry Hudson đã từng thử sức và thất bại. Họ đi dọc vịnh Baffin, Lancaster và eo biển Peel, cùng các eo biển James Ross và Rae để khảo sát đất và băng từ Gjoa Haven, Nunavut, Canada trong hai mùa đông liến tiếp.

Trong suốt khoảng thời gian này, Amundsen học từ những người Netsilik các kỹ năng sống còn ở vùng cực mà ông cần đến, chẳng hạn như cách dùng chó kéo xe và cách ăn mặc. Tiếp tục hành trình về phía Nam đảo Victoria, con tàu vượt quần đảo Bắc Cực vào ngày 17 tháng 8 năm 1905, nhưng phải dừng chân trú đông trước khi đến Nome, thuộc bờ Thái Bình Dương của lãnh thổ Alaska. Cách đó năm trăm dặm là thành phố Eagle, Alaska. Amundsen đã đến đó để gửi một thông điệp (người nhận trả tiền) vào ngày 5 tháng 12 năm 1905. Sau đó, ông tiếp tục đến Nome vào năm 1906. Vì đây là một cảng nước nông (1 mét) mà nhiều tàu lớn hơn không thể dùng con đường này.

Chuyến thám hiểm Nam Cực

Thay đổi kế hoạch

Sau khi vượt lối thông Tây Bắc, Amundsen dự định hướng đến Bắc Cực và thám hiểm vịnh (?) Bắc Cực. Năm 1909, sau khi được biết Frederick Cook và Robert Peary lần lượt là những người đầu tiên chinh phục Cực Bắc, ông thay đồi kế hoạch. Sử dụng con tàu Fram (tên tiếng Anh là "Forward"), trước đó được dùng bởi Fridtjof Nansen, Amundsen dong buồm về Nam Cực vào năm 1910. Trong quyển sách của ông, The South Pole, ông cần phải chinh phục Nam Cực để có tiền tài trợ cho chuyến đi Bắc Cực ông đã dự định. Để chuẩn bị cho chuyến đi này, Amundsen đã cẩn thận nghiên cứu tài liệu và các ghi chép trước đó của các đoàn thám hiểm trước. Đồng thời, ông đúc kết những kinh nghiệm bản thân và kết hợp với các tư liệu để vạch nên một kế hoạch chu đáo cho chuyến đi.

Amundsen không tiết lộ cho ai biết về chuyện thay đổi kế hoạch ngoại trừ em trai ông, Leon và Thorvald Nilsen, chỉ huy tàu Fram. Amundsen sợ rằng Nansen sẽ từ chối cho ông dùng con tàu, nhưng thật ra, sau khi được biết việc này, Nansen ủng hộ ông tuyệt đối. Đồng thời, ông cũng không muốn Robert Falcon Scott biết về sự cạnh tranh của ông ở vùng Cực. Nhưng về sau Scott khẳng định rằng sự hiện diện của Amundsen không làm ảnh hưởng gì đến kế hoạch của chính ông. Kế hoạch ban đầu đưa con tàu vượt qua Horn để đến eo biển Bering. Amundsen đợi đến khi Fram đến Madeira mới thông báo việc đổi kế hoạch cho thủy thủ đoàn. Trái với lo sợ của ông, tất cả đều đồng ý đi tiếp. Leon thông báo tin này với công chúng vào ngày 2 tháng Mười. Trong thời gian ở Madeira, Amundsen gửi một bức điện tín đến Scott, báo cho ông biết thay việc đổi đích đến: "XIN BÁO VỚI NGÀI FRAM ĐANG ĐẾN NAM CỰC -- AMUNDSEN".

Có mặt tại vịnh Cá Voi

nhỏ|"The mystic Barrier" tại Vịnh Cá voi (Bay of Whales), gần nơi Amundsen lần đầu tiên đến Đoàn thám hiểm đến vịnh Cá Voi nằm ở rìa Đông thềm băng Ross vào ngày 14 tháng 1 năm 1911. Amundsen hạ trại ở đây và đặt tên cho nó là Framheim, nghĩa là nhà của Fram. Trước đó, Earnest Shackleton đánh giá đây không phải là một vị trí tốt để dựng trại khi ông đến đây vào năm 1907 vì cho rằng nền băng nơi đây rất dễ vỡ và không vững vàng. Amundsen đọc qua những đánh giá của Shackleton và chú ý thấy địa hình nơi đây không thay đổi nhiều từ khi James Clark Ross tìm ra vịnh này bảy mươi năm trước, tức 1841. Ông lý luận rằng vịnh này đủ vững chắc để phục vụ mục đích của ông và đoán rằng thềm băng của khu vực này nằm chắc chắn trên các đảo nhỏ và đá ngầm. Amundsen nhận xét rằng nếu Shackleton đến vịnh trễ hơn thì có thể ông đã chọn nơi này để hạ trại. Trại của Amundsen bị trôi ra biển khi thềm băng này vỡ ra một vài ngày sau đó.(Ranulph Fiennes: Captain Scott 2003).

Tác phẩm

  • Nordvestpassagen, 2-vols, 1907. Translated as The North-West Passage: Being the Record of a Voyage of Exploration of the ship "Gjøa" 1903-1907, 1908.
  • Sydpolen, 2-vols, 1912. Translated as The South Pole: An Account of the Norwegian Antarctic Expedition in the "Fram," 1910-1912, translated by A. G. Chater, 1912.
  • Nordostpassagen. Maudfærden langs Asiens kyst 1918 – 1920. H. U. Sverdrups ophold blandt tsjuktsjerne. Godfred Hansens depotekspedition 1919 – 1920. Gyldendal, Kristiania 1921.
  • Gjennem luften til 88° Nord (by Roald Amundsen, Lincoln Ellsworth and other members of the expedition, 1925). Translated as Our Polar Flight: The Amundsen-Ellsworth Polar Flight, 1925; also as My Polar Flight, 1925.
  • Den første flukt over polhavet, with Lincoln Ellsworth and others, 1926. Translated as The First Flight Across the Polar Sea, 1927; also as The First Crossing of the Polar Sea, 1927.
  • Mitt liv som polarforsker, 1927. Translated as My Life as an Explorer, 1927.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Roald Engebreth Gravning Amundsen** (16 tháng 7 năm 1872 - tháng 6 năm 1928) là một nhà thám hiểm người Na Uy. Ông dẫn đầu cuộc thám hiểm Nam Cực thành công đầu tiên vào
Khu vực biển Amundsen ở Nam Cực Thềm băng Nam Cực, biển Amundsen **Biển Amundsen** là phần cánh tay của Nam Đại Dương ngoài thềm Marie Byrd ở hướng Tây Nam Cực. Biển được bao
right|thumb|Vịnh Amundsen, khu vực phía tây bắc, Canada. **Vịnh Amundsen** là vịnh dạng đất mũi ở vùng tây bắc Canada, khác với vịnh Amundsend (Nam Cực), giữa đảo Banks, đảo Victoria và lục địa. Chiều
**Roald Hoffmann** (sinh ngày 18 tháng 7 năm 1937) là nhà hóa học lý thuyết người Mỹ đã đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1981. Hiện nay ông giảng dạy ở Đại học Cornell tại
**Vịnh Amundsen**, có tên khác **Vịnh Băng**, là một nơi có hình dạng địa lý giống vịnh dài thông thường có độ dài , gần phía tây của núi Tula ở thềm lục địa Enderby,
276x276px|nhỏ|Vị trí của Nam Cực trên thế giới **Nam Cực** hay **Cực Nam Địa lý** là điểm có vĩ độ bằng -90 độ trên Trái Đất. Nó là điểm cực nam trên bề mặt Trái
**Lục địa Nam Cực** hay **châu Nam Cực** (, phát âm hay ; còn được gọi là **Nam Cực**) là lục địa nằm xa về phía nam và tây nhất trên Trái Đất, chứa Cực
Từ thời đại Viking (tổ tiên trực hệ của những người Bắc Âu hiện đại), người Bắc Âu (hay cũng thường được gọi là người Scandinavia) đã là những nhà thám hiểm và hàng hải
**Thềm băng Ross** là thềm băng lớn nhất của Nam Cực (có diện tích khoảng 487.000 km², và bề ngang khoảng 800 km, bằng kích thước của Pháp). Nó có chiều dày vài trăm mét. Thềm băng
**Lynne Cox** (sinh năm 1957, ở Boston, Massachusetts) là một vận động viên bơi lội đường trường và nhà văn người Mỹ. ## Những thành tích Năm 1971, 14 tuổi, Lynne Cox và các đồng
**Mũi Chelyuskin** () là điểm cực bắc của lục địa Á-Âu (và thực sự của lục địa lục địa), và điểm cực bắc của đất liền Nga. Nó nằm ở mũi Bán đảo Taymyr, phía
**Chó Greenland** (, Greenlandic: _Kalaallit Qimmiat_, tiếng Đan Mạch: _Grønlandshunden_) là giống chó lớn thuộc loại chó husky và được nuôi như chó kéo xe và săn gấu trắng Bắc Cực và hải cẩu. Chúng
thumb|right|Môi trường cao, bằng phẳng và lạnh lẽo của cao nguyên Nam Cực tại Dome C thumb|right|Bề mặt cao nguyên Nam Cực, tại 150E, 77S **Cao nguyên Nam Cực** hay **Cao nguyên Vua Haakon VII**,
**Thám hiểm** hay **khảo sát địa lý** () bao gồm các hoạt động mang tính phiêu lưu mạo hiểm nhằm mục đích khám phá tìm kiếm những điều bất ngờ chưa được biết đến. Từ
Ngày **14 tháng 12** là ngày thứ 348 (349 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 17 ngày trong năm. ## Sự kiện *835 – Sự biến Cam Lộ: Phái hoạn quan tiêu diệt thế
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
**Dornier Do J** là một mẫu máy bay hoạt động trên mặt nước hai động cơ của Đức, được Dornier Flugzeugwerke thiết kế và sản xuất trong thập niên 1920. ## Thiết kế và phát
:_Bài này nói về điểm nằm ở tận cùng phía Bắc của Trái Đất. Xem các nghĩa khác tại Bắc Cực (định hướng)_ nhỏ|phải|Điểm Cực Bắc **Bắc Cực** hay **cực Bắc của Trái Đất** (Cực
Thuyền trưởng **Robert Falcon Scott** (6 tháng 6 năm 1868 - 29 tháng 3 năm 1912) là một sĩ quan Hải quân Hoàng gia Anh và nhà thám hiểm người đã chỉ huy hai cuộc
**Tromsø** (phát âm tiếng Na Uy: [trʊmsø] (nghe); tiếng Bắc Sami: Romsa; Kven: Tromssa) là một thành phố và đô thị ở hạt Troms, Na Uy. Trung tâm hành chính của đô thị là thành
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1926: ## Các sự kiện * United Airlines được thành lập. ### Tháng 1 * 6 tháng 1 - Hãng
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1928: ## Các sự kiện ### Tháng 1 * 6 tháng 1-8 - Trung úy Christian Schilt thực hiện 10
Tuyến Hành lang Tây Bắc **Hành lang Tây Bắc** (tiếng Anh: Northwest Passage) là một tuyến đường đi qua Bắc Băng Dương, dọc theo bờ biển phía bắc của lục địa Bắc Mỹ qua các
**1065 Amundsenia** là một tiểu hành tinh bay quanh Mặt Trời. Ban đầu nó có tên là _1926 PD_. It is now named after Roald Amundsen. Nó có đường kính 30 kilometres.
nhỏ|Bản đồ [[Nam Cực]] **Biển Ross** là một vịnh sâu của Nam Băng Dương vào Nam Cực, giữa đảo Victoria và đảo Marie Byrd. ## Mô tả Biển Ross được khám phá bởi James Ross
**Lịch sử thế giới hiện đại** theo mốc từng năm, từ năm 1910 đến nay. ## Thập niên 1910 * 1910: Bắt đầu cuộc cách mạng México. George V trở thành vua của Vương quốc
nhỏ|Xe trượt tuyết sức ngựa nhỏ|Xe trượt tuyết với chó kéo, ở [[Quebec, Canada]] **Xe trượt tuyết** là loại xe di chuyển bằng hình thức trượt trên bề mặt tuyết hoặc băng. Xe này có
thế=Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662|nhỏ|349x349px|Bản đồ Na Uy vẽ năm 1662 **Lịch sử Na Uy** bị tác động mạnh mẽ bởi yếu tố địa hình và khí hậu. Khoảng 10,000 năm TCN, các
thumb|alt= Năm người đàn ông mặc quần áo nặng và đội đầu; Ba đang đứng và hai người ngồi trên mặt đất. Những người đàn ông đứng đàng cầm cờ; Cả năm đều có biểu
**Hiệp hội Nhân chủng học và Địa lý Thụy Điển** (**SSAG**; ) là một cộng đồng khoa học được thành lập vào tháng 12 năm 1877. Cộng đồng nayg được xây dựng sau khi sắp
right|thumb|"Bản đồ các chủng tộc của châu Âu và các phần tiếp giáp của châu Á và châu Phi ", do Bustead vẽ cho Hội Địa lý Quốc gia, năm 1919 **Albert Hoit Bumstead** (1875
**Burberry** là một hãng thời trang sang trọng của nước Anh, phân phối quần áo thể thao độc đáo sang trọng, phụ kiện thời trang, nước hoa, kính mát, và mỹ phẩm. Họa tiết hình
**Khinh hạm** **lớp Fridtjof Nansen** (còn được gọi tắt là **lớp Nansen**) là lớp khinh hạm mang tên lửa dẫn đường chủ lực của Hải quân Hoàng gia Na Uy (RNN). Lớp tàu được đặt
right|thumb|Urvantsev những năm 1920. **Nikolay Nikolayevich Urvantsev** (; sinh ngày 29 tháng 1 năm 1893 – mất ngày 20 tháng 2 năm 1985) là một nhà địa chất học và thám hiểm người Liên Xô.