✨RMK-BRJ

RMK-BRJ

nhỏ|Trụ sở chính của RMK-BRJ tại số 2 Duy Tân, Sài Gòn (nay là phố Phạm Ngọc Thạch), tháng 1 năm 1972. nhỏ|Biểu tượng. RMK-BRJ là một liên hợp xây dựng của Mỹ bao gồm 4 công ty nằm trong số các công ty lớn nhất của Mỹ, do Hải quân Hoa Kỳ thành lập trong Chiến tranh Việt Nam để xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ở miền Nam Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho người Mỹ leo thang đưa quân đội và khí tài của Mỹ vào Việt Nam. Hợp đồng xây dựng của RMK-BRJ trị giá 1,9 tỷ đô la (tương đương 14 tỷ đô la năm 2017), hoàn thành một chương trình xây dựng được coi là lớn nhất trong lịch sử tính đến thời điểm đó.

Trong thời hạn 10 năm của hợp đồng, RMK-BRJ đã sử dụng 200.000 công nhân Việt Nam trong các ngành xây dựng và hành chính. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ người ta cho phép sử dụng một nhà thầu và lực lượng xây dựng dân sự trong một khu vực đang xảy ra chiến đấu.

Hợp đồng xây dựng

Bối cảnh

Trong thập niên 1950, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã giao trách nhiệm xây dựng hỗ trợ quân đội ở các khu vực trên thế giới cho ba nhánh quốc phòng chính: Lục quân, Hải quân và Không quân. Hải quân được giao làm hợp đồng đại lý xây dựng của Bộ Quốc phòng ở Đông Nam Á cũng như ở một số khu vực khác.

Các bên tham gia

Cuối năm 1961, Cục Bến tàu của Hải quân Hoa Kỳ, được gọi là Bộ Tư lệnh Kỹ thuật Cơ sở Hải quân (NAVFAC) sau năm 1966, đã ký hợp đồng với một số công ty xây dựng lớn nhất của Hoa Kỳ để xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam nhằm hỗ trợ Việt Nam Cộng hòa. Dựa trên kinh nghiệm của họ với các đập, cảng, đường cao tốc và đường xá, Raymond International, Inc. đã được chọn hợp tác với Morrison-Knudsen International, Inc., được biết đến với xây dựng quốc tế hạng nặng. Raymond đã có nhiều kinh nghiệm đóng cọc trên khắp thế giới, bao gồm Mexico và Tokyo, cũng như Lầu Năm Góc trong Thế chiến II. Cả hai đều từng là thành viên của một tập đoàn xây dựng căn cứ Hải quân ở Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai với hợp đồng trị giá 1,5 tỷ USD.

Hợp đồng

Hợp đồng thư gốc (NBy-44105) với giá cố định được ký vào ngày 8 tháng 12 năm 1961. Báo cáo kết thúc cuối cùng được trình bày vào tháng 10 năm 1972. Giá trị hợp đồng cuối cùng là 1,865 tỷ đô la, không bao gồm giá trị của vật liệu, thiết bị, phân phối và vận chuyển do chính phủ cung cấp.

Yêu cầu hậu cần khẩn cấp

Các cơ sở hậu cần quân sự sẵn có ở Việt Nam không đủ để hỗ trợ tăng quân số và vật chất hỗ trợ cần thiết. Vào tháng 11 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đã gặp Tướng Westmoreland tại Sài Gòn và hứa cung cấp 1 tỷ đô la tài trợ cho việc xây dựng này, cũng như 200 triệu đô la để đặt hàng vật liệu và thiết bị xây dựng ngay lập tức.

Số lượng lao động cao nhất tại RMK-BRJ để đáp ứng tất cả các yêu cầu này là 51.044 vào tháng 7 năm 1966. Trong số này, khoảng 9,5% là người Mỹ, 13,5% các nước thứ ba và 77% người Việt Nam. Cuộc điều tra sau đó đã phát hiện ra những mất mát từ cơ sở phân phối hàng. Đã có sự thất thoát vật liệu xây dựng RMK-BRJ do kho trữ hàng mở tại các công trường xây dựng chính và tại các cảng biển. RMK-BRJ đã được quân đội chỉ đạo không xây dựng các cơ sở chứa vật liệu cho đến khi các cảng và căn cứ hàng không quan trọng được xây dựng.

Danh sách các dự án lớn

nhỏ|Xây Cầu lớn ở khu vực Sài Gòn, năm 1972. Tất cả các dự án và ngày tháng được tổng hợp từ Tregaskis.

1962

  • Căn cứ không quân Biên Hòa
  • Căn cứ không quân Pleiku
  • Đường lăn Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn
  • Trạm Rađa Kiểm soát Hàng không Sân bay Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn
  • Trạm radar kiểm soát trên không tại cơ sở Monkey Mountain, Đà Nẵng

1963

  • Cảng Vịnh Cam Ranh, một bến tàu nước sâu
  • Đường băng Căn cứ Không quân Đà Nẵng mở rộng
  • Sân bay Sóc Trăng mở rộng
  • Bến tàu khách và hàng hóa Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn
  • Căn cứ không quân Nha Trang mở rộng
  • Học viện Không quân Việt Nam, Nha Trang
  • Kho, bến đạn Cần Thơ

1964

  • Căn cứ không quân Bình Thủy
  • Đài Nghiên cứu Phú Bài
  • Bệnh viện dã chiến số 8, Nha Trang
  • Bệnh viện Qui Nhơn

1965

  • Sửa chữa Brink BOQ sau trận bom, Sài Gòn
  • Căn cứ không quân Cam Ranh
  • Tổng kho Hậu cần Quân đội Hoa Kỳ, Tân Thuận, Sài Gòn
  • Đường băng mới Căn cứ Không quân Chu Lai
  • Đường băng bổ sung Căn cứ Không quân Đà Nẵng
  • Sân bay trực thăng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
  • Hoạt động Hỗ trợ Hải quân, Đà Nẵng
  • Các tòa nhà Căn cứ Không quân Biên Hòa
  • Cơ sở hạ tầng sân bay Vĩnh Long
  • Bến tàu Hải quân tại Căn cứ Hải quân An Thới, Phú Quốc

1966

  • Đại sứ quán Hoa Kỳ, Sài Gòn
  • Đồn và kho quân Long Bình, Bộ chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ
  • Cảng Đà Nẵng
  • Cầu Đông Đà Nẵng và đường cao tốc
  • Cơ sở Hỗ trợ Hậu cần và Đạn dược Quân đội, Cam Ranh
  • Căn cứ không quân Phù Cát, Bình Định
  • Cảng Vũng Tàu và căn cứ hải quân
  • Căn cứ không quân Phan Rang, đường băng bổ sung
  • Kho cảng Sài Gòn
  • Đảo Thủ Đức Depot cho RMK-BRJ
  • Tòa nhà Đài Truyền hình Lực lượng Vũ trang, Sài Gòn
  • Đường băng bổ sung tại Sân bay Tôn Sơn Nhứt, Sài Gòn
  • Các tòa nhà bổ sung tại Căn cứ Không quân Biên Hòa
  • Bệnh viện 400 giường, Pleiku
  • Trung tâm Logistics, Nha Trang
  • Căn cứ trực thăng Sân bay Vĩnh Long
  • Căn cứ ven sông Hải quân, Cần Thơ

1967

  • Tân Cảng Sài Gòn
  • Trụ sở MACV "Lầu Năm Góc phía Đông", Sài Gòn
  • Đường băng bổ sung tại Căn cứ Không quân Biên Hòa
  • Cảng Vịnh Cam Ranh, bổ sung 3 cầu tàu và bến tiếp đạn
  • Căn cứ hải quân Cam Ranh
  • Sân bay quy nhơn
  • Nạo vét bến cảng Quy Nhơn
  • Cảng nhỏ Đồng Tâm
  • Cảng LST Căn cứ Tân Mỹ

1968–1970

  • Nhà chờ máy bay
  • Đường cao tốc và cầu trên toàn quốc
  • Hạ tầng cho căn cứ quân đội

1971–1972

  • Đường tránh Sài Gòn và 5 cây cầu lớn
  • Kho đạn, Long Bình
  • Kho đạn, Đà Nẵng
  • Đường cao tốc và cầu trên toàn quốc
  • "Chuồng cọp" của Nhà tù Côn Sơn

Di sản

thumb|Đại sứ Bunker tại Lễ trao giải RMK-BRJ ngày 3 tháng 7 năm 1972

Sáu cảng biển, tám sân bay phản lực, đường cao tốc và các cây cầu đã nối tiếp tục trong việc phục vụ người dân và hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam ngày nay. Đến năm 1970, 200.000 công nhân Việt Nam đã được RMK-BRJ thuê mướn để làm về các công việc ngành xây dựng và hành chính

Tại buổi lễ kết thúc hợp đồng RMK-BRJ vào ngày 3 tháng 7 năm 1972, Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker phát biểu: "Tôi rất vui và tự hào được tham gia kỷ niệm việc hoàn thành chương trình xây dựng RMK-BRJ tại Việt Nam. Nhân dịp này, đánh dấu sự kết thúc thành công một thập kỷ nhiều thành tựu, đây là một thời điểm đặc biệt vui mừng và đầy hy vọng, nhắc nhở chúng ta rằng xây dựng trong chiến tranh cũng đồng thời với xây dựng vì sự nghiệp hòa bình và tiến... Vào thời điểm mà quá nhiều lực lượng đang dồn sức hủy diệt, thành tích mười năm của RMK-BRJ theo tôi là một trong những giai đoạn tuyệt vời nhất trong lịch sử quốc gia của chúng ta".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Trụ sở chính của RMK-BRJ tại số 2 Duy Tân, Sài Gòn (nay là phố Phạm Ngọc Thạch), tháng 1 năm 1972. nhỏ|Biểu tượng. **RMK-BRJ** là một liên hợp xây dựng của Mỹ bao gồm
**Sân bay Biên Hòa** hay **Căn cứ không quân Biên Hòa** là một sân bay quân sự nằm ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km. Sân bay
thumb|Tòa đại sứ quán thứ hai nhìn từ bên ngoài **Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn** là tòa nhà có phái bộ ngoại giao của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Tòa
**Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất** (tên giao dịch chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất**; IATA: **SGN**; ICAO: **VVTS**) là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện tại.