✨Riyal Ả Rập Xê Út

Riyal Ả Rập Xê Út

Riyal ( ); là đơn vị tiền tệ của Ả Rập Xê Út. Nó được viết tắt là hoặc SR (riyal Saud). Một riyal ứng với 100 halala ( ).

Lịch sử

Riyal là tiền tệ của Ả Rập Xê Út từ khi quốc gia này hình thành, và là tiền tệ của Hejaz trước khi Ả Rập Xê Út lập quốc, là một trong những loại tiền tệ chính trong khu vực Địa Trung Hải vào thời Ottoman. Riyal Hejaz dựa trên nhưng không tương đương với đồng 20 kuruş Ottoman và do đó được chia thành 20 qirsh. Tuy nhiên, dù riyal Hejaz có cùng trọng lượng với đồng 20 kuruş Ottoman, song nó có độ nguyên chất.917 thay vì.830 như đồng tiền của Ottoman. Do đó, vì riyal Ả Rập Xê Út đầu tiên có đặc điểm kỹ thuật giống như riyal Hejaz và được lưu thông bên cạnh đồng Ottoman, nó có giá trị 22 kuruş Ottoman và do đó được chia thành 22 ghirsh khi đồng xu qirsh được ban hành vào năm 1925. Hệ thống vẫn được duy trì thậm chí cả khi riyal sau đó bị giảm giá trị, về lượng bạc, đến rupee Ấn Độ vào năm 1935.

Năm 1960, hệ thống được đổi thành 20 qirsh bằng một riyal, tiếp đến vào năm 1963 đã lưu hành halala, có giá trị bằng một phần trăm của một riyal. Một số đồng xu Ả Rập Xê Út vẫn mang các mệnh giá bằng qirsh, song chúng không còn được dùng phổ biến.

Đồng xu

Năm 1925, đồng xu bằng đồng chuyển tiếp cho và qirsh (tại một số nơi trong nước được phát âm là girsh) được Ibn Saud cho đúc tại Makkah. Đến năm 1926, lưu thông các đồng xu , và 1 qirsh bằng đồng niken mang hiệu "quốc vương của Hejaz và sultan của Nejd".

Năm 1927, vương hiệu được đổi thành "quốc vương của Hejaz và Nejd và các lãnh thổ phụ thuộc" và đồng xu được phát hành có các mệnh giá , và 1 qirsh bằng đồng niken và các mệnh giá , và 1 riyal bằng bạc.

Năm 1935, đồng xu lần đầu tiên được phát hành với chữ Ả Rập Xê Út. Chúng là các đồng bạc , và 1, nhẹ hơn gần 50% so với đồng xu đợt trước. Các đồng xu , và 1 qirsh đúc bằng đồng niken được phát hành từ năm 1937. Năm 1946 (tức năm 1365 theo lịch Hồi giáo), nhiều đồng xu bằng đồng niken được thể hiện thêm số 65 trong chữ số Ả Rập, động thái này được Krause và Mishler mô tả là "một động thái nhằm phá vỡ độc quyền của những người đổi tiền đối với các đồng xu giá trị nhỏ". Các đồng 2 và 4 qirsh bằng đồng niken được lưu thông vào năm 1957.

Năm 1963, halala được lưu thông, và đồng 1 halala bằng đồng điếu được phát hành. Đây là năm duy nhất chúng được đúc. Các đồng xu 5, 10, 25 và 50 halala bằng đồng niken được phát hành vào năm 1972, được khắc với mệnh giá của chúng ứng với ghirsh hoặc riyal (1, 2 qirsh, , riyal). Năm 1976, đồng xu 1 riyal bằng đồng niken được lưu thông, cũng được khắc với mệnh giá 100 halala. Đồng 1 riyal lưỡng kim, cũng được ký hiệu 100 halala, được phát hành vào năm 1999.

Một loạt đồng xu mới với các mệnh giá 1, 5, 10, 25, và 50 halala cùng 1 và 2 riyal lưỡng kim được phát hành vào năm 2016.

Tiền giấy

Năm 1953, Cơ quan Tiền tệ Ả Rập Xê Út (SAMA) bắt đầu phát hành biên lai hành hương Hajj với giá 10 riyal, tiếp đến là 1 và 5 riyal lần lượt vào năm 1954 và 1956. Những thứ giống tiền giấy này ban đầu có mục đích dành cho người hành hương sử dụng, để đổi ngoại tệ cho họ. Tuy nhiên, chúng trở nên được chấp thuận rộng rãi tại Ả Rập Xê Út và thay thế đồng bạc riyal ở mức độ lớn trong các giao dịch tài chính lớn. Sau đó, Cơ quan Tiền tệ bắt đầu phát hành các tiền giấy chính quy có mệnh giá 1, 5, 10, 50 và 100 riyal vào ngày 15 tháng 6 năm 1961. Biên lai hành hương bị thu hồi vào ngày 1 tháng 2 năm 1965.

Tiền giấy mệnh giá 500 riyal được phát hành vào năm 1983. Tiền giấy mệnh giá 20 và 200 riyal được phát hành vào năm 2000 nhằm tưởng nhớ một trăm năm lập quốc. Loạt tiền giấy thứ năm mang hình Quốc vương Abdullah được phát hành vào năm 2007. Loạt tiền giấy thứ sáu mang hình Quốc vương Salman bin Abdulaziz Al Saud được phát hành vào ngày 13 tháng 12 năm 2016.

Loạt thứ năm

Ngày 20 tháng 5 năm 2007, Cơ quan Tiền tệ Ả Rập Xê Út công bố loạt tiền giấy thứ năm sẽ có hình Quốc vương Abdullah Bin Abdulaziz, riêng tiền mệnh giá 500 riyal mang hình Quốc vương Abdulaziz Al Saud. Tiền giấy mệnh giá 100 và 50 riyal được phát hành vào ngày 21 tháng 5 năm 2007. Tiền giấy mệnh giá 10 và 5 riyal được phát hành vào tháng 6 năm 2007, và tiền giấy mệnh giá 500 riyal được phát hành vào tháng 9 năm 2007, và cuối cùng tiền giấy mệnh giá 1 riyal được phát hành vào tháng 12 năm 2007. SAMA dự kiến loạt tiền giấy thứ tư sẽ mất khoảng hai năm để loại bỏ, song việc loại bỏ hoàn toàn phải mất hơn hai năm do loạt tiền này đã được lưu thông trong hơn 25 năm. Loạt tiền mới có hệ thống an ninh tân tiến nhất nhằm ngăn chặn làm giả và các hoạt động tương tự.

Loạt thứ sáu (2016)

Cơ quan Tiền tệ Ả Rập Xê Út phát hành loạt tiền giấy mới có chân dung của Quốc vương Salman trên tiền giấy mệnh giá từ 5 đến 100 riyal, chân dung Quốc vương Abdulaziz Al Saud trên tiền giấy mệnh giá 500 riyal.

Tỷ giá cố định

Trong tháng 6 năm 1986, riyal chính thức được ghim với quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong thực tế, nó cố định ở tỷ giá 1 USD = 3,75 riyal, tức 1 riyal = 0,266667 USD. Tỷ giá này được chính thức hoá vào ngày 1 tháng 1 năm 2003.

Riyal trong một thời gian ngắn từng tăng lên mức cao nhất trong vòng 20 năm khi Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất vào ngày 18 tháng 9 năm 2007 và SAMA lựa chọn không làm theo, một phần do lo ngại lạm phát gây mức lãi thấp và giá trị thấp cho riyal. Riyal quay lại ghim với USD vào đầu tháng 12 năm 2007.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Riyal** ( __); là đơn vị tiền tệ của Ả Rập Xê Út. Nó được viết tắt là hoặc SR _(riyal Saud)_. Một riyal ứng với 100 halala ( __). ## Lịch sử Riyal là
**Saud bin Abdulaziz Al Saud** ( ; 15 tháng 1 năm 1902 – 23 tháng 2 năm 1969) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 1953 đến năm 1964. Sau một giai đoạn
Ả Rập Xê Út có nền kinh tế phụ thuộc vào dầu lửa, chính phủ điều hành hầu hết các hoạt động kinh tế lớn. Ả Rập Xê Út sở hữu 25% tổng trữ lượng
**Riyadh** (, , Dịch: 'Đồng cỏ' Najdi phát âm: ), tiếng Việt: _E-ri-át_) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Ả Rập Xê Út. Thành phố cũng là thủ phủ của vùng
**Sân vận động Nhà vua Fahd** (), có biệt danh là "Hòn ngọc của các sân vận động" ( ) hoặc đơn giản là "Hòn ngọc" ( ), là một sân vận động đa năng
**Jeddah** (đôi khi được viết là _Jiddah_ hay _Jedda_; __ phát âm Hejaz: ) là một thành phố tại vùng Tihamah Hejaz trên bờ biển Đỏ và là một trung tâm đô thị lớn tại
**Sân vận động Đại học Nhà vua Saud** (), còn được gọi là **Mrsool Park** vì lý do tài trợ, là một sân vận động bóng đá nằm ở Riyadh, Ả Rập Xê Út. Vào
nhỏ|B737 của Sama Airlines tại sân bay quốc tế King Fahd, Dammam bound for Prince Mohammad Bin Abdulaziz Airport, Medina. Nhìn từ sảnh của ga đi. **Sân bay quốc tế King Fahd** () nằm cách
**Dome of the Rock** ( _Qubbat al-Sakhrah,_ _Kippat ha-Sela;_ còn gọi là nhà thờ vòm đá, vòm đá vàng, đền thờ đá tảng, **Mái vòm đá**) là một thánh đường Hồi giáo nằm tại khu
**Qatar** (phát âm: “Ca-ta”, , chuyển tự: _Qaṭar_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Qatar** (, chuyển tự: _Dawlat Qaṭar_) là quốc gia có chủ quyền tại châu Á, thuộc khu vực Tây Nam
thumb|Bản đồ xuất khẩu của Qatar thumb|Bản đồ biểu diễn tài nguyên [[khoáng sản của Qatar.]] **Nền kinh tế Qatar** là một trong những nền kinh tế giàu nhất trên thế giới về GDP bình
**László Bölöni** (; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1953) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người România. Sau khi bắt đầu sự nghiệp tại ASA Târgu Mureș,
**Giải vô địch bóng đá thế giới 2022** (hay **Cúp bóng đá thế giới 2022**, , ) là lần thứ 22 của Giải vô địch bóng đá thế giới, diễn ra tại Qatar từ ngày
Việc trao Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 cho Qatar đã tạo ra một số lo ngại và tranh cãi liên quan đến cả sự phù hợp của Qatar với tư cách là
nhỏ|phải|Nội thất nhà thờ. **Nhà thờ Hồi giáo Shah Faisal** là một nhà thờ Hồi giáo tại Islamabad, Pakistan. Đây là nhà thờ Hồi giáo lớn nhất Nam Á và là một trong những nhà
nhỏ|phải|Một con cừu Najdi **Cừu Najdi** hoặc còn gọi là **cừu Nejdi** là một giống cừu bản địa của loài cừu nhà có nguồn gốc từ khu vực Najd của bán đảo Ả Rập khô