✨Quyền Anh
Quyền Anh, còn gọi là Đấm bốc (bốc bắt nguồn từ một từ tiếng Pháp là boxe; phát âm: [
Trong Quyền Anh chia thành Quyền Anh nghiệp dư và Quyền Anh chuyên nghiệp. Quyền Anh nghiệp dư là một nội dung thi đấu của nhiều đại hội thể thao trên toàn thế giới, trong đó có Thế vận hội. Đây là môn thi đấu tiêu chuẩn trong hầu hết các giải thể thao quốc tế — và môn này cũng có giải vô địch thế giới của riêng mình. Quyền Anh có hệ thống quy định riêng, được giám sát bởi trọng tài trong những khung thời gian nhất định, các khoảng thời gian từ một đến ba phút được gọi là các hiệp đấu. Trong trận đấu, người thắng cuộc có thể giành được chiến thắng trước khi kết thúc hiệp đấu khi trọng tài cho rằng đối phương không có khả năng tiếp tục trận đấu, truất quyền thi đấu của đối thủ hoặc đối thủ xin thua. Khi trận đấu kết thúc hiệp cuối cùng mà cả hai đối thủ vẫn đứng vững, phiếu ghi điểm của trọng tài sẽ xác định người chiến thắng. Trong trường hợp cả hai võ sĩ đạt được số điểm bằng nhau từ các trọng tài, thì cuộc đấu chuyên nghiệp được coi là hòa. Trong môn Quyền Anh ở Thế vận hội, vì phải tuyên bố người chiến thắng, không có trận hòa, nên các trọng tài sẽ quyết định người thắng dựa trên tiêu chí kỹ thuật.
Kể từ buổi bình minh của lịch sử loài người, tức thời tiền sử rồi cổ đại, con người đã chiến đấu tay đôi, bằng chứng sớm nhất về các cuộc thi đấu thể thao bằng nắm đấm trực tiếp có từ Cận Đông cổ đại vào thiên niên kỷ thứ III và thứ II trước Công nguyên. Bằng chứng sớm nhất về các quy tắc Quyền Anh có từ thời Hy Lạp cổ đại, nơi Quyền Anh được thiết lập như một bộ môn của Thế vận hội vào năm 688 trước Công nguyên.
Lịch sử
Lịch sử cổ đại
Một bức tranh vẽ các thanh niên [[Văn minh Minos|Minos đấu quyền, từ một bức bích họa của Akrotiri vào khoảng năm 1650 trước Công Nguyên. Đây là cách sử dụng găng tay Quyền Anh được ghi nhận sớm nhất.|trái]] nhỏ|Một cảnh đấu quyền được mô tả trên một bình gốm [[Panathenaic từ Hy Lạp cổ đại, khoảng năm 336 trước Công nguyên, lưu giữ tại Bảo tàng Anh.]] Cho đến nay vẫn chưa xác định được mốc thời gian cụ thể khi Quyền Anh ra đời. Nhiều minh chứng chỉ ra rằng Quyền Anh có sớm ở Bắc châu Phi khoảng 4000 năm trước Công Nguyên, Địa Trung Hải khoảng 1500 năm TCN, Hy Lạp khoảng 900 năm TCN và La Mã cổ đại khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Một nơi khác là vùng Lưỡng Hà, khoảng 3700 năm trước Công Nguyên, ở xứ Mésopotamie đã lưu hành môn đấu quyền, thủy tổ của môn Quyền Anh ngày nay. Có một thời gian môn đấu quyền bị suy vi, mãi đến năm 1750 trước Công Nguyên mới thịnh hành trở lại. Bấy giờ, vào những ngày nghỉ ngơi nhất định, bộ môn này được tổ chức thi đấu với sự tham dự đông đảo của mọi tầng lớp. Hình ảnh mô tả sớm nhất về Quyền Anh bắt nguồn từ một phù điêu của người Sumer ở Iraq từ thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên.
Năm 146 trước Công Nguyên, sau khi La Mã tiêu diệt Hy Lạp, môn đấu quyền cũng truyền theo đến La Mã với sự hưởng ứng nhiệt tình của tầng lớp thanh niên, cũng sớm trở nên phổ biến ở La Mã cổ đại. Các chiến binh bảo vệ các khớp ngón tay của họ bằng những chiếc kẹp da thuộc quấn quanh nắm tay. Dẫn dần da cứng hơn đã được sử dụng và da thuộc tam giác đã trở thành một vũ khí trang bị cho nắm tay. Những chiếc đinh tán kim loại đã được đưa vào những da thuộc để tăng sức sát thương. Các sự kiện giao tranh được tổ chức tại những giảng đường La Mã. Tuy nhiên, sau một thời gian dài do sự phát triển môn đấu quyền La Mã ngày càng đi sâu vào sự tàn nhẫn, các trận đấu thường dẫn đến cái chết, đến năm 394, Hoàng đế La Mã Theodosius I đã ra lệnh cấm hẳn môn đấu quyền.
Tương đương với Địa Trung Hải, tại tiểu lục địa Ấn Độ cũng đã tồn tại nhiều loại đấu quyền từ Ấn Độ cổ đại. Những tài liệu tham khảo sớm nhất về musti-yuddha đến từ các sử thi Vedic cổ điển như Ramayana và Rig Veda. Sử thi tiếng Phạn Mahabharata mô tả hai chiến binh đấu quyền với bàn tay nắm chặt và chiến đấu bằng các cú đá, đòn đánh bằng ngón tay, đòn đầu gối và những cú húc đầu. Các cuộc đấu tay đôi (niyuddham) thường chiến đấu cho đến chết. Trong thời kỳ của Phó vương Miền Tây (35–405), người cai trị là Rudradaman I — ngoài việc thông thạo các ngành khoa học xã hội lớn bao gồm âm nhạc cổ điển Ấn Độ, ngữ pháp tiếng Phạn và logic học — còn được cho là một kỵ sĩ, người đánh xe cừ khôi, người cưỡi voi, kiếm sĩ và võ sĩ. Gurbilas Shemi, một văn bản của đạo Sikh thế kỷ XIX đã đưa ra nhiều đề cập đến môn võ musti-yuddha.
Thời kỳ đảo Anh
Quy tắc Luân Đôn
trái|nhỏ|Ảnh bộ quy tắc của võ sĩ Quyền Anh tay trần [[Jack Broughton (1704–1789), được xem là bộ quy tắc thành văn đấu quyền đầu tiên.]] Lưu trữ trong lịch sử về hoạt động đấu quyền thời cổ đại đã biến mất sau khi Đế chế La Mã phương Tây sụp đổ, nguyên nhân lớn bởi việc đeo vũ khí trở nên phổ biến một lần nữa khiến cho hứng thú chiến đấu bằng nắm đấm giảm dần. Tuy nhiên, có những ghi chép chi tiết về các môn thể thao sử dụng quyền thuật khác nhau đã được duy trì ở các tỉnh và thành phố của Ý trong khoảng thời gian từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVII. Vùng đất khác là Kiev Rus' thời trung cổ cũng có môn thể thao được gọi là "Kulachniy Boy" hay "Fist Fighting" về giao đấu bằng tay. Trong thời kỳ sau Hậu kỳ Trung Cổ đi vào Phục Hưng, khi việc đeo kiếm trở nên ít phổ biến hơn, thì việc giao đấu bằng nắm đấm lại có sự quan tâm mới. Môn thể thao này sau đó trở lại ở Anh vào đầu thế kỷ XVI dưới hình thức đấu quyền tay trần, đôi khi được gọi là đấu thưởng (prizefighting). Tài liệu ghi chép đầu tiên về đấu tay không ở Anh xuất hiện vào năm 1681 tại London Protestant Mercury, và nhà vô địch đấu quyền tay trần đầu tiên của Anh là James Figg vào năm 1719. Đây cũng là thời điểm mà thuật ngữ "boxing" lần đầu tiên được sử dụng. Hình thức Quyền Anh hiện đại thời kỳ này này rất khác. Tại các cuộc thi vào thời của James Figg, ngoài việc đánh đấm, còn có đấu kiếm và nhào lộn. Từ năm 1719 đến năm 1730, James Figg đã chiến thắng nhiều đối thủ và được coi là nhà vô địch Quyền Anh hạng nặng đầu tiên, và cũng là người đầu tiên mở trường dạy môn đấu quyền. Sau đó, một nhà vô địch người Anh thế hệ nối tiếp là Jack Broughton đã đi xa hơn: mở trường dạy đấu quyền, phát minh ra đôi găng tay để giảm bớt tai nạn trong thi đấu, lập ra quy tắc đấu quyền mang tính thể thao hơn. Vào ngày 6 tháng 1 năm 1681, trận đấu Quyền Anh được ghi hình đầu tiên diễn ra ở Anh khi Christopher Monck, Công tước thứ 2 của Albemarle (về sau này là Phó Thống đốc Jamaica) tổ chức một trận đấu quyền giữa quản gia và người bán thịt, đều là người làm của ông, cũng như trao giải là tiền cho người giành chiến thắng.nhỏ|[[Tom Molineaux (trái) v. Tom Cribb trong trận tái đấu tranh chức vô địch hạng nặng của Anh, 1811.]]Đấu trận ban đầu không có quy tắc thành văn. Không có phân chia trọng lượng cân nặng người đấu hoặc giới hạn vòng đấu, và không có trọng tài, điều này khiến các trận đấu thường hỗn loạn. Một bài báo đầu tiên về Quyền Anh đã được xuất bản tại Nottingham năm 1713, bởi Sir Thomas Parkyns, Nam tước thứ hai, một người bảo trợ môn đấu vật từ Bunny, Nottinghamshire, ông cũng là người đã thực hành các kỹ thuật mà ông mô tả. Trong bài báo, một trang duy nhất đề cập đến sách hướng dẫn đấu vật và đấu kiếm của ông là Progymnasmata: The inn-play, or Cornish-hugg wrestler, đã mô tả một hệ thống các đòn húc đầu, đấm, khoét mắt, bóp nghẹt và ném mạnh không được công nhận trong Quyền Anh ngày nay. Sau đó, quy tắc Quyền Anh dần xuất hiện. Các quy tắc Quyền Anh đầu tiên được gọi là quy tắc của Broughton, được đưa ra bởi nhà vô địch Jack Broughton vào năm 1743 để bảo vệ các võ sĩ trên võ đài giảm thiểu nguy cơ tử vong. Theo các quy tắc này, nếu một người đấu bị đánh ngã và không thể tiếp tục sau 30 giây, trận đấu sẽ kết thúc. Cấm đánh một võ sĩ đã bị hạ và tấn công dưới thắt lưng. Broughton khuyến khích việc sử dụng mufflers, một dạng băng gạc hoặc găng tay có đệm, được sử dụng trong các trận đánh đôi hoặc đấu súng trong huấn luyện và trong các trận đấu triển lãm công chúng. Những quy tắc này đã cho phép các võ sĩ thời đó một lợi thế mà ngày nay không có, đó là cho phép võ sĩ hạ một đầu gối để kết thúc hiệp đấu và bắt đầu đếm 30 giây bất cứ lúc nào. Vì vậy, nếu một võ sĩ nhận ra mình đang gặp khó khăn về thể lực thì sẽ có cơ hội phục hồi. Tuy nhiên, điều này được coi là không đàn ông (unmanly), và thường không được phép bởi các quy tắc bổ sung do các võ sĩ thương lượng trước khi đấu. Trong Quyền Anh hiện đại, có giới hạn ba phút cho các hiệp đấu (không giống như võ sĩ bị hạ gục kết thúc quy tắc hiệp đấu). Cố ý hạ gục trong môn Quyền Anh hiện đại sẽ khiến võ sĩ đang hồi phục bị mất điểm trong hệ thống tính điểm. Nhà báo thể thao người Anh Pierce Egan đã đặt ra thuật ngữ "the Sweet Science" như một hình ảnh thu nhỏ cho từ prizefighting, hay đầy đủ hơn là "the Sweet Science of Bruising" như một mô tả về cảnh chiến đấu bằng tay không của người Anh vào đầu thế kỷ XIX. Luật London Prize Ring về đấu quyền đưa ra các biện pháp vẫn còn hiệu lực với Quyền Anh chuyên nghiệp cho đến ngày nay, chẳng hạn như cấm húc đầu né đòn ngoài vòng, khoét, cào, đá, đánh một người khi đang ngã, giữ dây và dùng nhựa, đá hoặc vật cứng trong tay, và cắn.
Quy tắc Queensberry
thumb|right|Trận đấu giữa Leonard v. Cushing vào tháng 6 năm 1894. Ghi lại bởi [[Kinetograph, được cung cấp cho các nhà triển lãm với giá 22,50 USD. Những khán giả xem vòng chung kết thấy Leonard đánh gục Cushing.]]
Năm 1867, Luật Hầu tước Queensberry (Marquess of Queensberry rules) được John Chambers soạn thảo cho các chuỗi thi đấu, chức vô địch đấu quyền nghiệp dư được tổ chức tại Lillie Bridge ở Luân Đôn cho các hạng nhẹ, hạng trung và hạng nặng. Các quy tắc được công bố dưới sự bảo trợ của Hầu tước Queensberry, người luôn gắn liền với tên tuổi của họ. Trong luật, có 12 quy tắc quy định rằng các trận đấu phải là một trận đấu Quyền Anh công bằng, trong một võ đài rộng 24 foot (7,3 m) vuông hoặc tương tự. Các hiệp đấu kéo dài ba phút với khoảng thời gian nghỉ một phút giữa các hiệp đấu. Mỗi võ sĩ được tính mười giây nếu bị đánh ngã và đấu vật bị cấm. Sự ra đời của những đôi găng tay đấu quyền cỡ vừa phải cũng làm thay đổi bản chất của các cuộc đọ sức. Một đôi găng tay đấm bốc trung bình giống như một đôi găng tay phồng và được buộc xung quanh cổ tay. Găng tay có thể được sử dụng để chặn các cú đánh của đối thủ. Do sự ra đời của chúng, các trận đấu trở nên dài hơn và mang tính chiến lược hơn với tầm quan trọng lớn hơn gắn liền với những kỹ thuật, thao tác phòng thủ như trượt, nhấp nhô của cơ thể, phản công và đặt góc tấn công. Do ít chú trọng phòng thủ hơn vào việc sử dụng cẳng tay và nhiều hơn vào găng tay, nên tư thế cẳng tay cổ điển hướng ra ngoài, tư thế nghiêng về phía sau của võ sĩ Quyền Anh tay trần đã được sửa đổi thành tư thế hiện đại hơn, trong đó thân nghiêng về phía trước và tay được giữ gần mặt hơn để phòng thủ.
Năm 1872, bộ luật của Queensbeery chính thức được áp dụng vào những trận đấu. Sau này quy tắc Broughton trở thành luật thi đấu quyền Anh nhà nghề và quy tắc Queensbeery trở thành luật thi đấu quyền Anh nghiệp dư.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
trái|nhỏ|"Dempsey và Firpo", tranh của George Wesley Bellows. Luis Ángel Firpo là người Mỹ gốc Iberia đầu tiên giành danh hiệu thế giới vào năm 1923. Vào cuối thế kỷ XIX, võ thuật Quyền Anh hay đấu giải đấu quyền có vị trí là một môn thể thao gây tranh cãi, chưa được hợp pháp hóa trong pháp luật. Quyền Anh thời điểm này nằm ngoài vòng pháp luật ở Anh và phần lớn Hoa Kỳ, các trận đấu có thưởng thường được tổ chức tại các tụ điểm cờ bạc và bị truy tìm, chấm dứt bởi cảnh sát. Việc gây gổ và đấu vật tiếp tục diễn ra khá đều đặn, và các cuộc bạo loạn trong những trận đấu quyền có thưởng là chuyện thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ này, đã phát sinh ra một số nhà vô địch đấu quyền tay trần đáng chú ý, và họ đã phát triển các chiến thuật chiến đấu khá độc đáo. Năm 1882, án lệ nước Anh R v. Coney 8 QBD 534 gây ảnh hưởng lớn xuất hiện. Trong vụ này, Tòa án Bảo lưu các Vụ án Vương miện Anh (Court for Crown Cases Reserved) phát hiện một cuộc đánh nhau bằng tay trần, gây hậu quả là tổn hại cơ thể với sát thương vô cùng lớn, bất chấp sự đồng ý của những người tham gia. Vụ án cũng cho thấy việc tự nguyện tham dự với tư cách là khán giả là bằng chứng có thể được đưa ra trước bồi thẩm đoàn để chứng minh động cơ hỗ trợ và tiếp tay cho vụ hành hung. Với án lệ này, quy định luật Anh đưa ra cấm đấu quyền tay trần vì tổn thương tính mạng người tham gia, đánh dấu sự kết thúc của đầu quyền tay trần công khai rộng rãi ở Anh. nhỏ|Ảnh động Quyền Anh cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này, nhà vô địch hạng nặng thế giới đầu tiên theo Luật Queensberry là "Gentleman Jim" Corbett đã đánh bại John L. Sullivan vào năm 1892 tại Câu lạc bộ điền kinh Pelican ở New Orleans. Năm 1897, trường hợp đầu tiên của việc kiểm duyệt phim ở Hoa Kỳ xảy ra khi một số tiểu bang cấm chiếu các bộ phim đánh nhau có thưởng từ bang Nevada, tiểu bang vẫn quy định hợp pháp hình thức này ở thời điểm đó. Trong suốt thời gian đầu thế kỷ XX, các võ sĩ đấu tranh để đạt được tính hợp pháp môn đấu quyền. Họ được hỗ trợ bởi ảnh hưởng của những người quảng bá như Tex Rickard và sự nổi tiếng của những nhà vô địch nổi tiếng thế giới như John L. Sullivan. Từ cuối thế kỷ XIX, Quyền Anh bắt đầu lan rộng ở các quốc gia không thuộc Anglo-Saxon, chủ yếu ở những quốc gia có ảnh hưởng của Anh hoặc Mỹ, chẳng hạn như Argentina, Uruguay, Panama, Cuba, Mexico, Puerto Rico, Philippines, Nam Phi và Tây Ban Nha. Ở Ecuador và México, môn thể thao này thường được biết đến là box. Tại Argentina, giải vô địch Quyền Anh đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1899, tôn vinh Jorge Newbery, một trong những nhà vô địch đầu tiên của nước này. Năm 1903, Liên đoàn Câu lạc bộ Quyền Anh Pháp được thành lập. Ở Tây Ban Nha, Barcelona đã tổ chức một số võ đường Quyền Anh kể từ năm 1876. Năm 1903, câu lạc bộ vận động viên được thành lập ở Barcelona, trong đó giáo sư người Pháp Vidal tổ chức các cuộc triển lãm Quyền Anh, và vào năm 1908, cháu trai của ông, Jean Vidal, đã mở một phòng tập Quyền Anh trong Nhà thi đấu Villa.
Hiện đại
nhỏ|Sàn đấu Quyền Anh chuyên nghiệp phổ biến thời hiện đại. Ảnh chụp sàn đấu tại [[MGM Grand Garden Arena, Las Vegas tranh đai WBA (Super) hạng bán trung Manny Pacquiao v. Keith Thurman, 2019.]] Năm 1904, lần đầu tiên Quyền Anh được đưa vào chương trình Thế vận hội và trở thành môn thi đấu chính thức của các kỳ Thế vận hội. Năm 1920, Liên đoàn Quyền Anh Thế giới (AIBA) ra đời. Năm 1994, đã có 122 quốc gia gia nhập AIBA, cho đến nay theo thống kê trên trang web của AIBA đã có 194 quốc gia (trong đó có Việt Nam) trực thuộc tổ chức này. Về quy tắc hiện đại, trong suốt thời gian thế kỷ XX, các danh mục mới đã được thêm vào và các giới hạn hạng cân của võ sĩ được sửa đổi, mở rộng phạm vi từ trọng lượng thấp nhất, trọng lượng tối thiểu hoặc hạng rơm (atomweight), đến trọng lượng cao nhất, hạng siêu nặng (super heavyweight), hiện đang có hiệu lực. Mức độ của các trận đấu và hệ thống quy định đòn tấn công cũng đã được sửa đổi. Trong Quyền Anh chuyên nghiệp, vào năm 1982, Hội đồng Quyền anh Thế giới (WBC) đã có sáng kiến, giảm thời gian của các trận tranh đai xuống còn mười hai hiệp sau khi võ sĩ Kim Duk-koo chết vì não năm 1982. trái|nhỏ|Trao huy chương môn Quyền Anh hạng trung tại [[Thế vận hội Mùa hè 2020, Tokyo.]] Môn thể thao Quyền Anh hiện đại ban đầu phát sinh từ các địa điểm bất hợp pháp và đấu thưởng ngoài vòng pháp luật, dần dần các tổ chức ngoài vòng pháp luật này được công nhận, đã trở thành những doanh nghiệp thương mại trị giá hàng tỷ USD. Phần lớn tài năng võ sĩ Quyền Anh trẻ vẫn đến từ các khu vực nghèo đói trên khắp thế giới nơi như México, Cuba, Châu Phi, Nam Mỹ và Đông Âu, nơi xuất phát của những vận động viên trẻ đầy khát vọng, những người mong muốn trở thành tương lai của Quyền Anh. Ngay cả ở Mỹ, những vùng nội thành như New York và Chicago đã xuất hiện những tài năng trẻ đầy triển vọng. Theo nhà văn, nhà xuất bản Rubin: "Quyền Anh đã mất đi sức hấp dẫn với tầng lớp trung lưu Mỹ, và hầu hết những võ sĩ Quyền Anh ở Mỹ hiện đại đều đến từ đường phố và là những võ sĩ đường phố". Bắt đầu từ năm 2019 và đến năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát toàn cầu gây ảnh hưởng đến việc thực hiện các sự kiện Quyền Anh theo lịch trình, vì những hạn chế sinh ra từ các biện pháp phòng ngừa lây lan là cần thiết để ngăn ngừa lây nhiễm. Các biện pháp ngăn chặn được thực hiện, và dần dần các trận đấu được tổ chức đi kèm với phòng bệnh, trong đó trọng tài duy trì việc sử dụng mặt nạ, và các khán giả vắng mặt.
Quy tắc
nhỏ|[[Tina Rupprecht nghỉ giữa hiệp, được huấn luyện viên chỉ dẫn, đội ngũ hỗ trợ hồi sức.]] Trong Quyền Anh, Luật Queensberry từ 1867 là quy tắc chung điều chỉnh Quyền Anh kể từ khi được xuất bản cho đến nay. Mỗi trận đấu Quyền Anh thường bao gồm một số hiệp nhất định trong ba phút, tổng cộng có thể lên đến 12 hiệp. Thường dành một phút giữa mỗi hiệp đấu với các võ sĩ ở các góc được chỉ định của họ để nhận được lời khuyên từ huấn luyện viên và hỗ trợ hồi sức từ đội ngũ của họ. Cuộc đấu được điều khiển bởi một trọng tài làm việc trong võ đài để đánh giá và kiểm soát hành vi của các võ sĩ, quy định về khả năng giao đấu an toàn của họ, đếm thời gian các võ sĩ bị hạ gục và quy định về lỗi vi phạm. Tối đa ba trọng tài thường có mặt tại võ đài để chấm điểm hiệp đấu và chỉ định điểm cho các võ sĩ, dựa trên các cú đấm, phòng thủ, hạ gục, ôm giữ và các biện pháp kỹ thuật khác. Vì cách đánh Quyền Anh theo kiểu kết thúc mở, nhiều trận đấu có kết quả gây tranh cãi, trong đó một hoặc cả hai võ sĩ cho rằng họ đã bị từ chối chiến thắng một cách oan uổng. Mỗi võ sĩ có một góc được chỉ định của võ đài, nơi huấn luyện viên của họ, cũng như đội ngũ của họ tạm đứng. Mỗi võ sĩ bước vào võ đài từ các góc được chỉ định của họ ở đầu mỗi hiệp và phải ngừng đánhm, trở về góc của họ khi kết thúc mỗi hiệp.
Kết luận trận đấu
phải|nhỏ|Võ sĩ Thụy Điển [[Ingemar Johansson hạ đo ván nhà vô địch hạng nặng Floyd Patterson, ngày 26 tháng 6 năm 1959.]] Số điểm xác định mỗi trận sẽ được ban giám khảo quyết định, và được gọi là "go to distance". Võ sĩ nào có số điểm cao hơn khi kết thúc trận đấu được coi là chiến thắng. Với ba giám khảo, các quyết định nhất trí và chia rẽ có thể xảy ra. Một võ sĩ có thể thắng hiệp đấu trước khi đưa ra quyết định bằng hạ đo ván (knock-out, KO). Nếu võ sĩ bị hạ gục trong trận đấu, được xác định bằng việc võ sĩ có chạm vào sàn vải của võ đài bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể họ ngoài bàn chân do cú đấm của đối thủ chứ không phải do trượt chân hay không, theo quyết định của trọng tài, trọng tài bắt đầu đếm cho đến khi võ sĩ đứng dậy và có thể tiếp tục. Một số tổ chức yêu cầu trọng tài đếm đến tám bất kể võ sĩ có đứng dậy trước hay không. Trọng tài đếm đến mười, võ sĩ bị đánh gục sẽ được kết luận là bị KO hay chưa (cho dù bất tỉnh hay không) và võ sĩ kia được coi là chiến thắng bằng loại trực tiếp (KO). Cũng có thể xảy ra trường hợp loại trực tiếp kỹ thuật (technical knock-out, TKO) và được quyết định bởi trọng tài, bác sĩ trận đấu hoặc đội ngũ góc võ đài của võ sĩ nếu võ sĩ không thể tiếp tục thi đấu do bị thương hoặc không thể duy trì khả năng bảo vệ bản thân. Nhiều tổ chức phê chuẩn Quyền Anh cũng có "quy tắc ba lần đánh gục", trong đó một võ sĩ bị đối thủ đánh gục (knockdown) ba lần trong một trận sẽ bị xử thua TKO. TKO cũng được coi là loại trực tiếp trong thống kê sự nghiệp của võ sĩ. Quy tắc đếm đến tám "standing eight" cũng có thể có hiệu lực, cho phép trọng tài có quyền đếm đến 8 đối với võ sĩ mà trọng tài cảm thấy đang trong tình trạng nguy hiểm, trạng thái rủi ro và cơ thể bất ổn trong trận, ngay cả khi không có tình huống bị đánh gục nào xảy ra. Sau khi đếm, trọng tài sẽ quan sát võ sĩ và quyết định xem võ sĩ có đủ sức khỏe để tiếp tục hay không. Đối với mục đích tính điểm, quy tắc đếm đến 8 được coi như là một lần đánh ngã.
Điều khoản hạn chế
trái|nhỏ|[[Saúl Álvarez tung đòn cross đánh hạ đối thủ, thắng TKO.]] Về quy tắc chung, các võ sĩ bị cấm ra đòn tấn công dưới thắt lưng, cố tình vấp, giữ, đẩy, cắn đối thủ hoặc khạc nhổ. Quần đùi của võ sĩ được nâng lên để đối thủ không được phép đánh vào vùng háng với ý định gây đau hoặc chấn thương, tức chỉ được tấn công phần cơ thể trên quần. Nếu không tuân theo quy định này thì có thể phạm lỗi. Quy tắc cũng cấm đòn đá, húc đầu hoặc đánh bằng bất kỳ bộ phận nào của cánh tay ngoài các đốt ngón tay của nắm đấm kín (bao gồm cả cấm đánh bằng cùi chỏ, vai hoặc cẳng tay, cũng như bằng găng tay hở, cổ tay, mặt trong, mặt sau hoặc mặt bên của bàn tay). Các võ sĩ cũng bị cấm đánh vào lưng, sau đầu hoặc cổ (được gọi là cú đấm thỏ "rabbit-punch") hoặc thận. Bên cạnh đó, võ sĩ bị cấm cầm dây chằng sàn đấu để hỗ trợ khi đấm, giữ đối thủ trong khi đấm, hoặc cúi xuống dưới thắt lưng của đối thủ (bất kể khoảng cách giữa hai người).
Quyền Anh có kỹ thuật ôm giữ "clinch" – một động tác phòng thủ trong đó một võ sĩ dùng cánh tay của mình để ôm giữ, cố định đối thủ ở tư thế đứng, ngăn chặn tấn công. Khi trọng tài buộc dừng động tác này thì mỗi võ sĩ phải lùi lại một bước trước khi quay lại tấn công. Khi một võ sĩ bị đánh ngã, võ sĩ kia phải ngay lập tức ngừng giao tranh và di chuyển đến góc trung lập xa nhất của võ đài cho đến khi trọng tài ra phán quyết loại trực tiếp hoặc cho trận đấu tiếp tục. Các trường hợp vi phạm các quy tắc này có thể bị trọng tài quy là phạm lỗi, có thể đưa ra cảnh cáo, trừ điểm hoặc truất quyền thi đấu của võ sĩ vi phạm, tự động bị xử thua, tùy theo mức độ nghiêm trọng và tính cố ý của hành vi phạm lỗi. Một lỗi cố ý gây thương tích khiến cho một trận đấu không thể tiếp tục thường khiến võ sĩ phạm lỗi đó bị truất quyền thi đấu. Một võ sĩ trúng phải một cú đánh do tai nạn không cố ý, chẳng hạn như trúng đòn vào hạ bộ, thì có thể có tối đa 5 phút để hồi phục. Những pha phạm lỗi vô tình gây chấn thương khi kết thúc một hiệp đấu có thể dẫn đến khả năng không có kết quả hoặc "no contest", hoặc có thể khiến trận đấu đi đến quyết định nếu đủ hiệp (thường là bốn hiệp trở lên, hoặc ít nhất ba hiệp trong một trận đấu bốn hiệp).
Hệ thống Quyền Anh
nhỏ|Anh em nhà Klitschko, từng thi đấu nghiệp dư, giành Huy chương Vàng Quyền Anh hạng siêu nặng tại [[Thế vận hội Mùa hè 1996|Thế vận hội 1996 trước khi chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp và vô địch hạng nặng thế giới.]] Trong suốt thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, các cuộc đấu Quyền Anh thường được thúc đẩy bởi tiền, khi những võ sĩ thi đấu để giành tiền thưởng, những người quảng bá kiểm soát cổng vào sân và khán giả đặt cược vào kết quả. Đầu thế kỷ XX, phong trào Thế vận hội hiện đại làm hồi sinh sự quan tâm đến các môn thể thao nghiệp dư, và Quyền Anh nghiệp dư trở thành một môn thể thao Thế vận hội vào năm 1908. Ở hình thức hiện tại ngày nay, Thế vận hội và các giải đấu nghiệp dư khác thường giới hạn trong ba hoặc bốn hiệp, cách tính điểm được tính dựa trên số lần ra đòn trung mục tiêu, bất kể va chạm và các võ sĩ đeo mũ bảo hộ, giảm số lượng thương tích, hạ đo ván, và loại trực tiếp. Hiện tại, các đòn ghi điểm trong môn Quyền Anh nghiệp dư được các trọng tài phụ tính một cách chủ quan, nhưng Viện Thể thao Úc đã xây dựng và chứng minh một nguyên mẫu của hệ thống tính điểm Quyền Anh tự động, mang tính khách quan, cải thiện độ chính xác và được cho là khiến môn thể thao này trở nên thú vị hơn đối với khán giả. Quyền Anh chuyên nghiệp cho đến nay vẫn là hình thức phổ biến nhất của môn thể thao này trên toàn cầu, mặc dù Quyền Anh nghiệp dư đang chiếm ưu thế ở một số nơi như Cuba và một số nước thuộc Liên Xô cũ. Đối với hầu hết các võ sĩ, một sự nghiệp nghiệp dư, đặc biệt là tại Thế vận hội, phục vụ cho việc phát triển các kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm để chuẩn bị cho sự nghiệp chuyên nghiệp. Các võ sĩ phương Tây thường tham gia một kỳ Thế vận hội và sau đó chuyển sang chuyên nghiệp, người Cuba và các nước xã hội chủ nghĩa khác có cơ hội thu về nhiều huy chương. Năm 2016, các võ sĩ chuyên nghiệp đã được tham dự Thế vận hội và các giải đấu khác do AIBA phê chuẩn. Điều này được tiến hành nhằm phổ biến thể thức kết hợp thể thao và sự nghiệp chuyên nghiệp, mang lại cho tất cả các vận động viên cơ hội giống như các võ sĩ được bảo hộ khác. Tuy nhiên, các tổ chức chuyên nghiệp phản đối gay gắt quyết định đó.
Quyền Anh nghiệp dư
Chia hạng thể thức
Quyền Anh nghiệp dư có thể được tìm thấy thể dục thể thao cấp độ đại học, tại Thế vận hội, Đại hội Thể thao Khối thịnh vượng chung, Đại hội Thể thao châu Á, hay Đại hội Thể thao Đông Nam Á. Ở nhiều địa điểm khác nhau có các hiệp hội Quyền Anh nghiệp dư khác nhau quản lý. Quyền Anh nghiệp dư có một hệ thống tính điểm đo lường số lượng đòn đánh trúng đích chính xác được tính, ưu tiên hơn là sát thương vật lý, hay sức mạnh của đòn đánh. Các hiệp đấu bao gồm ba hiệp, mỗi hiệp ba phút trong Thế vận hội, ABA (các hiệp hội quyền anh nghiệp dư) quốc gia, có khoảng cách giữa các hiệp là một phút.
Về chia hạng thể thức của các hạng cân: hệ thống cân Quyền Anh nghiệp dư theo kilôgam (Metric) và hệ thống Aviordupois được sử dụng chia làm 12 hạng cân của Thế vận hội từ 48 kg (105 lb) đến trên 91 kg (200 lb).
Tính điểm thể thao
nhỏ|Một trận thi đấu Quyền Anh nghiệp dư với trọng tài kiểm soát trực tiếp. trái|nhỏ|Các trọng tài tính điểm ([[Thế vận hội Mùa hè 2016|Rio de Janeiro 2016), phụ trách tuyên bố người chiến thắng theo quyết định trong trường hợp không có loại trực tiếp, sau khi kết thúc tất cả các hiệp.]] Ở nghiệp dư, các vận động viên đội mũ bảo hộ đội đầu và đeo găng tay có dải hoặc vòng tròn màu trắng trên đốt ngón tay. Tuy nhiên, có những trường hợp không yêu cầu găng tay trắng, có thể đeo bất kỳ loại găng màu nào. Điểm găng màu trắng chỉ là một cách để giúp giám khảo dễ dàng hơn trong việc ghi điểm đòn đánh tốc độ cao. Mỗi đấu thủ phải được quấn tay đúng cách trước khi đánh để được tối ưu hóa tính chất bảo vệ thêm cho bàn tay của họ, có thêm đệm dưới găng tay. Găng tay của đấu sĩ phải có trọng lượng 12 ounce trừ khi võ sĩ nặng dưới , cho phép đeo găng tay 10 ounce.
Trong khi tung đòn, một cú đấm chỉ được coi là cú đấm ghi điểm khi phần màu trắng của găng tay chạm tới vị trí yếu điểm trên cơ thể của đối thủ. Mỗi cú đấm chạm vào đầu hoặc phần thân với một lực vừa đủ sẽ được cộng một điểm. Để cho điểm mỗi đòn đánh, đòn đó không bị ngăn chặn hay bảo vệ và phải trúng đích với diện tích tiếp xúc hợp lệ của găng, đòn đó phải trúng đích vào phần trước của đầu hay thân thể kể từ thắt lưng trở lên. Các đòn tạt ngang (swing) đánh đúng như trên cũng được tính điểm. Giá trị của các đòn đánh giáp thân sẽ được đánh giá vào thời điểm cuối của lần giáp thân giữa các vận động viên và tùy thuộc vào số đòn đánh chiếm đa số của vận động viên đó. Đòn đánh không ghi điểm là cú đánh vi phạm luật hoặc đánh bằng cạnh, mặt sau của găng, đánh mở găng hoặc bất kỳ phần nào khác ngoài diện tích găng che của các khớp của năm ngón tay (diện tích tiếp xúc hợp lệ), chạm vào cơ thể đối phương mà không có lực của vai hay cơ thể người ra đòn, đánh bằng cánh tay. Hình thức cho điểm theo quyết định được thiết lập, giám định ấn các nút được hướng dẫn để cho điểm vận động viên có những đòn đánh chính xác, hợp lệ. Về cơ bản, những đòn đánh chính xác và các thông tin khác được ghi lại và tính toán một cách tự động bởi máy chấm điểm. trái|nhỏ|[[Nicola Adams (trái, cựu võ sĩ Quyền Anh chuyên nghiệp) là nữ võ sĩ đầu tiên giành Huy chương Vàng Thể vận hội, tại London 2012.]] nhỏ|Sàn đấu Quyền Anh hình tứ giác với các góc trống trung lập. Trọng tài giám sát trận đấu để đảm bảo rằng các đấu thủ chỉ sử dụng các đòn đánh được cho phép. Một chiếc đai mang ở giữa phần hông và bụng là giới hạn cho các cú đấm, bất kỳ võ sĩ nào liên tục tung các đòn thấp hơn đai thắt lưng đều bị loại. Các trọng tài cũng đảm bảo rằng các võ sĩ không sử dụng chiến thuật clinch liên tục để ngăn cản đối thủ tấn công. Nếu điều này xảy ra, trọng tài tách các đối thủ và ra lệnh cho họ tiếp tục thi đấu. Việc ôm giữ đối thủ nhiều lần có thể khiến võ sĩ bị phạt hoặc cuối cùng là bị truất quyền thi đấu. Các trọng tài sẽ dừng hiệp nếu một võ sĩ bị thương nặng, nếu một võ sĩ đang lấn lướt đối thủ hoặc nếu điểm số bị mất cân bằng nghiêm trọng. Các trận đấu nghiệp dư kết thúc theo cách này có thể được ghi nhận là "RSC" (trọng tài dừng cuộc thi) với các ký hiệu cho đối thủ vượt trội trình độ (RSCO), đối thủ vượt trội điểm số (RSCOS), chấn thương (RSCI), hoặc chấn thương đầu (RSCH). Cụ thể "RSC" là khi giám sát trưởng sau khi hội ý với các thành viên trong Ban Giám sát tin tưởng rằng máy chấm điểm điện tử với 15 điểm cách biệt giữa hai vận động viên, trận đấu có thể chấm dứt để tránh cho một vận động viên bị những đòn không cần thiết. Bên cạnh đó, còn có quy định về count-back trong Quyền Anh nghiệp dư. Đó là có năm trọng tài cùng tham gia chấm điểm trong mỗi trận đấu nghiệp dư, nhưng chỉ có điểm số của ba trọng tài chấm cân bằng nhau nhất được chọn để tính điểm chung cuộc. Khi điểm số cuối trận cũng vẫn là ngang bằng nhau thì điểm số từ hai trọng tài sẽ bị loại bỏ, và điểm số của trọng tài còn lại chính là điểm số cuối cùng. Trong trường hợp điểm số vẫn hòa, điểm số cao nhất và thấp nhất của các trọng tài ở góc võ đài xanh và đỏ sẽ bị loại bỏ. Nếu điểm số vẫn hòa, năm trọng tài sẽ họp với nhau để đưa ra biểu quyết võ sĩ thắng trận.
Quyền Anh chuyên nghiệp
nhỏ|Võ sĩ Quyền Anh chuyên nghiệp [[Jack Dempsey trên bìa tạp chí Time năm 1923.]] nhỏ|Bản đồ các quốc gia, số lượng đối thủ bị đánh bại trong các trận đấu vô địch Quyền Anh hạng nặng thế giới mà công dân nước đó đạt được, tính đến 2020. Ở Quyền Anh chuyên nghiệp, các trận đấu chuyên nghiệp thường dài hơn nhiều so với các trận nghiệp dư, thường dao động từ mười đến mười hai hiệp, mặc dù các trận đấu bốn hiệp thường xảy ra đối với các võ sĩ ít kinh nghiệm hơn hoặc các võ sĩ câu lạc bộ. Ngoài ra còn có một số trận đấu chuyên nghiệp hai và ba hiệp, đặc biệt là ở Úc. Trong suốt đầu thế kỷ XX, các trận đấu thường có số hiệp không giới hạn, chỉ kết thúc khi một võ sĩ bỏ cuộc, mang lại lợi ích cho những võ sĩ có độ bền cao như Jack Dempsey. Mười lăm hiệp đấu vẫn là giới hạn được quốc tế công nhận cho các trận đấu vô địch trong hầu hết thế kỷ XX cho đến đầu những năm 1980, giảm giới hạn xuống còn mười hai hiệp. Mũ đội đầu không được phép sử dụng trong các cuộc đấu chuyên nghiệp và các võ sĩ thường chịu nhiều sát thương hơn hẳn so với nghiệp dư. Bất cứ lúc nào, trọng tài có thể dừng trận nếu cho rằng một võ sĩ không thể tự vệ do chấn thương. Trong trường hợp đó, võ sĩ còn lại được tuyên thắng trực tiếp. Bên cạnh KO là TKO cũng sẽ tuyên nếu võ sĩ tung ra một cú đấm mở ra một vết cắt vào đối thủ và đối thủ sau đó được bác sĩ cho là không đủ sức khỏe để tiếp tục vì vết cắt chảy máu liên tục. Vì lý do này, trong đội ngũ của mỗi võ sĩ thường có chuyên gia xử lý viết thương, công việc của họ là xử lý vết cắt giữa các hiệp để võ sĩ có thể tiếp tục bất chấp vết cắt. Ngược lại với quyền anh nghiệp dư, các võ sĩ nam chuyên nghiệp phải để ngực trần.
Tại Mỹ, Quyền Anh chuyên nghiệp được tăng cường kiểm soát bởi Ủy ban Quyền Anh Quốc gia (NBA) từ năm 1920 khi New York ban hành một đạo luật mới gọi là Luật Walker nhằm tránh những lạm dụng có thể xảy ra, quy định số tiền trong giải đấu và thiết lập một ủy ban Quyền Anh quốc gia. Sau đó các nước khác cũng thông qua điều luật tương tự và cũng thành lập các phòng ban kiểm soát giống như tại các bang và thành phố của Mỹ. Các bộ luật chính thức về Quyền Anh chuyên nghiệp gồm các chi tiết kỹ thuật về xây dựng võ đài, hình vuông có kích thước là 16 – 20 ft (4.9–6.1 m); trọng lượng tối thiểu của găng tay bông từ 6–8 oz (170–227 g); số vòng đấu tối đa (thường là 12 hiệp trong các trận giành chức vô địch); quy định về trọng tài và giám khảo; các định nghĩa và phạt lỗi; các hệ thống tính điểm để xác định kẻ thắng cuộc mà không phải dùng đến KO. Sau khi Luật Walker được hợp pháp hoá, môn thể thao này ngày càng trở nên phổ biến ở Mỹ. Các nhà vô địch hạng nặng Mỹ nằm trong số những vận động viên nổi tiếng trong làng thể thao. Jack Dempsey giành chức quán quân hạng nặng năm 1919 và bảo vệ danh hiệu của mình trước đối thủ người Pháp Georges Carpentier năm 1921, đây là trận đấu đầu tiên mà doanh thu từ vé vào cổng lên tới hàng triệu USD. Ở hệ thống quản lý, ngày nay, Quyền Anh chuyên nghiệp có bốn tổ chức lớn nhất thế giới là Hiệp hội Quyền Anh Thế giới (WBA), Hội đồng Quyền Anh Thế giới (WBC), Tổ chức Quyền Anh Thế giới (WBO), và Liên đoàn Quyền Anh Quốc tế (IBF) phụ trách việc tổ chức, công nhận, phê chuẩn và xếp hạng Quyền Anh chuyên nghiệp toàn cầu. Bên cạnh đó, có tạp chí The Ring cũng tham gia đăng tải về Quyền Anh chuyên nghiệp.
Phong cách Quyền Anh
Định nghĩa chiến thuật
nhỏ|Sách về chiến thuật Quyền Anh thời kỳ đầu, 1902. Phong cách Quyền Anh là thuật ngữ thường được sử dụng để định nghĩa cách tiếp cận, chiến thuật mà các võ sĩ sử dụng trong một trận đấu. Không có phong cách nào của hai võ sĩ là giống nhau, vì mỗi người được nhận định bởi các thuộc tính thể chất và tinh thần của riêng họ. Có năm phong cách chính tồn tại trong Quyền Anh: võ sĩ khoảng cách (outside fighter hoặc "boxer"); võ sĩ sức mạnh (brawler, "slugger"); võ sĩ áp đảo (inside fighter, "swarmer"); võ sĩ toàn năng (boxer/out-fighter); và võ sĩ phản công (counter puncher). Các phong cách này có thể được chia thành một số nhóm nhỏ hơn đối với các võ sĩ có đặc tính riêng rẽ. Triết lý chính của các phong cách đó là mỗi phong cách có một lợi thế hơn hẳn và dẫn đầu, nhưng lại bất lợi hơn phong cách khác ở yếu tố khác. Nó tuân theo nguyên lý oẳn tù tì, các phong cách xoay vòng, không có phong cách vượt trội hơn hẳn, chẳng hạn như võ sĩ khoảng cách đánh bại võ sĩ sức mạnh, võ sĩ sức mạnh đánh bại võ sĩ áp đảo, võ sĩ áp đảo đánh bại võ sĩ khoảng cách.
Võ sĩ khoảng cách
nhỏ|[[Floyd Mayweather, Jr. với chiến thuật giữ khoảng cách thường thấy với đối thủ.|trái]] Một võ sĩ khoảng cách hoặc võ sĩ tạo hình (còn được gọi là "out-fighter") đấu quyền với chiến thuật tìm cách duy trì khoảng cách giữa bản thân và đối thủ, chiến đấu bằng những cú đấm nhanh hơn, tầm xa hơn, đặc biệt nhất là cú đâm thẳng (jab) và dần dần khiến đối thủ gục ngã. Do mối quan hệ giữa lực và khoảng cách, khoảng cách lớn giữa hai võ sĩ khiến lực đấm giảm đi, những cú đấm được tung ra yếu hơn, các võ sĩ khoảng cách có xu hướng giành chiến thắng bằng điểm quyết định hơn là loại trực tiếp, mặc dù một số võ sĩ khoảng cách có thành tích loại trực tiếp đáng chú ý. Họ thường được coi là những chiến lược gia Quyền Anh giỏi nhất nhờ khả năng kiểm soát nhịp độ trận đấu và dẫn dắt đối thủ, hạ gục đối thủ một cách có phương pháp và thể hiện nhiều kỹ năng và sự khéo léo hơn bình thường. Những võ sĩ khoảng cách cần có tầm với, tốc độ tay, phản xạ và động tác di chuyển của đôi chân. Những võ sĩ khoảng cách đáng chú ý trong lịch sử Quyền Anh có thể kể tới Muhammad Ali, Larry Holmes, Joe Calzaghe, Wilfredo Gómez, Salvador Sánchez, Cecilia Brækhus, Gene Tunney, Ezzard Charles, Willie Pep, Meldrick Taylor, Ricardo "Finito" López, Floyd Mayweather Jr., Roy Jones Jr., Sugar Ray Leonard, Miguel Vázquez, Sergio "Maravilla" Martínez, Vitali Klitschko, Wladimir Klitschko và Guillermo Rigondeaux. Phong cách này cũng được sử dụng bởi võ sĩ nhân vật hư cấu Apollo Creed trong điện ảnh.
Võ sĩ toàn năng
nhỏ|[[Muhammad Ali tung đòn cross bằng chiến thuật toàn năng lẫn khoảng cách, hạ gục Brian London năm 1966.]] Một võ sĩ toàng năng (còn được gọi là "boxer-puncher") được xem là võ sĩ toàn diện, có thể chiến đấu ở cả cự ly xa như võ sĩ khoảng cách lẫn cự ly gần với sự kết hợp giữa kỹ thuật và sức mạnh, thường có khả năng hạ gục đối thủ bằng sự kết hợp đa dạng và trong một số trường hợp hạ gục đối thủ chỉ bằng một cú đánh tốc độ cao. Cách di chuyển và chiến thuật của phong cách tương tự như của một võ sĩ khoảng cách (mặc dù nhìn chung võ sĩ tốc độ ở cự ly gần, không cơ động như một võ sĩ khoảng cách), nhưng thay vì giành chiến thắng theo quyết định, phong cách này có xu hướng hạ gục đối thủ bằng cách sử dụng các tổ hợp động tác tốc độ cao hạ đo ván. Một võ sĩ Quyền Anh phải có thể trạng toàn diện để có thể sử dụng phong cách này một cách hiệu quả. Các võ sĩ toàng năng đáng chú ý có thể kể tới Muhammad Ali, Canelo Álvarez, Sugar Ray Leonard, Roy Jones Jr., Wladimir Klitschko, Vasyl Lomachenko, Lennox Lewis, Joe Louis, Wilfredo Gómez, Oscar De La Hoya, Archie Moore, Miguel Cotto, Nonito Donaire, Sam Langford, Henry Armstrong, Sugar Ray Robinson, Tony Zale, Carlos Monzón, Alexis Argüello, Érik Morales, Terry Norris, Marco Antonio Barrera, Naseem Hamed, Thomas Hearns, Julian Jackson và Gennady Golovkin.
Võ sĩ phản đòn
trái|nhỏ|[[Evander Holyfield năm 2007, nổi danh phản đòn hạng nặng.]] Những võ sĩ phản đòn (còn được gọi là "counter puncher") là những võ sĩ theo phong cách phòng ngự, né đòn, thường dựa vào sai lầm của đối thủ để giành lợi thế, thường áp dụng cho việc chiếm điểm số cao hơn, phù hợp hơn so với chiến thuật hạ đo ván. Võ sĩ phản đòn sử dụng khả năng phòng thủ toàn diện của mình để tránh hoặc chặn các cú đấm của đối thủ, và sau đó ngay lập tức khiến đối thủ mất cảnh giác bằng một cú đấm phản công đúng lúc và đúng vị trí. Trận chiến với một tay đấm phản công điêu luyện có thể biến thành một cuộc chiến tiêu hao thể lực, bởi mỗi đòn tấn công là mỗi lần tự mình đi vào nguy hiểm. Vì vậy, chiến đấu chống lại những tay đấm phản công đòi hỏi phải liên tục chống đỡ và khả năng tránh các đòn tấn công ngược lại của đối thủ. Để thực sự thành công khi sử dụng phong cách này, võ sĩ phản công phải có phản xạ tốt, khả năng dự đoán và nhận thức cao, xác định chính xác thời điểm, vị trí, có tốc độ, cả trong đòn đánh và động tác di chuyển hệ chân. Bên cạnh đó, những tay đấm phản công thường khiến đối thủ của họ gục ngã bằng cách khiến họ bỏ lỡ những cú đấm của mình. Đối thủ đấm trượt càng nhiều thì càng mệt mỏi nhanh hơn, và ảnh hưởng tâm lý của việc không thể tung ra đòn đánh chính xác. Các tay đấm phản đòn thường cố gắng vượt trội hoàn toàn đối thủ của họ, không chỉ về mặt thể chất, mà còn về mặt tinh thần và cảm xúc. Phong cách này có thể cực kỳ khó để áp dụng, đặc biệt thích hợp đối với những võ sĩ dày dạn kinh nghiệm. Võ sĩ phản đòn thường cố gắng tránh xa trung tâm của võ đài, tránh lực sát thương của đối thủ. Một lợi thế lớn trong việc phản đòn là động lượng về phía trước của đối thủ tấn công, tức nhân đôi lực của cú đấm phản đòn.
Những tay đấm phản đòn đáng chú ý có thể kể tới Muhammad Ali, Joe Calzaghe, Vitali Klitschko, Evander Holyfield, Max Schmeling, Chris Byrd, Jim Corbett, Jack Johnson, Bernard Hopkins, Laszlo Papp, Jerry Quarry, Anselmo Moreno, James Toney, Marvin Hagler, Juan Manuel Márquez, Humberto Soto, Floyd Mayweather Jr., Roger Mayweather, Pernell Whitaker, Sergio Gabriel Martinez và Guillermo Rigondeaux. Phong cách đấm bốc này cũng được sử dụng bởi võ sĩ hư cấu Little Mac trong trò chơi Punch-Out!!.
Võ sĩ sức mạnh
nhỏ|[[Sylvester Stallone vào vai võ sĩ sức mạnh Rocky Balboa.]] Võ sĩ sức mạnh (còn được gọi là "brawler/slugger") là một võ sĩ thường thiếu sự khéo léo trong kỹ thuật và thiếu linh hoạt trong bộ pháp trên võ đài, nhưng được bù đắp bằng việc sở hữu sức mạnh tuyệt đối ở cú đấm. Các võ sĩ này có xu hướng thiếu tính cơ động, ưa thích cơ chế ổn định, thường gặp khó khăn trong việc truy đuổi, tấn công những võ sĩ nhanh nhẹn. Họ cũng có xu hướng bỏ qua các cú đấm kết hợp kỹ thuật, đề cao ra đòn bằng một cánh tay, tung những cú đấm đơn, ít hơn, mạnh hơn (chẳng hạn như đấm móc ngang và đấm móc ngược). Sự chậm chạp và kiểu đánh có thể đoán trước của họ (những cú đấm đơn có cách quan sát rõ ràng) thường khiến họ dễ dàng bị phản công bởi võ sĩ phản đòn, vì vậy những võ sĩ sức mạnh phải có khả năng chịu đòn đáng kể. Tuy nhiên, không phải tất cả các võ sĩ sức mạnh đều không cơ động; một số có thể di chuyển và chuyển đổi phong cách khác nếu cần nhưng vẫn có phong cách sức mạnh như Wilfredo Gómez, Prince Naseem Hamed và Danny García. Trong lịch sử, võ sĩ sức mạnh dễ đoàn vì đòn đơn giản nhưng thường đánh đủ tốt để chống lại các phong cách chiến đấu khác bởi vì họ luyện tập để sở hữu cú đấm rất tốt. Họ thường có cơ hội cao hơn so với các phong cách chiến đấu khác để có thể hạ gục đối thủ bởi vì họ tập trung vào những đòn đánh sát thương khủng khiếp và mạnh mẽ, thay vì những đòn tấn công nhẹ hơn, nhanh hơn. Thông thường, họ tập trung vào việc tập luyện cho phần trên cơ thể thay vì toàn bộ cơ thể để tăng sức mạnh và sức bền. Họ cũng hướng tới mục đích đe dọa đối thủ của họ về sức mạnh, tầm vóc và khả năng ra đòn.
Tài sản cơ thể quan trọng nhất của một võ sĩ sức mạnh chính là sức mạnh và cằm (khả năng chịu đòn, trúng đòn vẫn có thể tiếp tục chiến đấu). Những võ sĩ nổi tiềng với phong cách có thể kể tới George Foreman, Rocky Marciano, Julio César Chávez, Roberto Durán, Sonny Liston, John L. Sullivan, Max Baer, Ray Mancini, David Tua, Arturo Gatti, Micky Ward, Brandon Ríos, Ruslan Provodnikov, Michael Katsidis, James Kirkland, Marcos Maidana, Jake LaMotta, Manny Pacquiao và John Duddy của Ireland. Phong cách Quyền Anh này cũng được sử dụng bởi các võ sĩ hư cấu Rocky Balboa của loạt phim Rocky và James "Clubber" Lang của Rocky III.
Võ sĩ áp đảo
nhỏ|[[Mike Tyson trên tạp chí năm 1988.]] Võ sĩ áp đảo (còn được gọi là "swarmer/in-fighter" hoặc "pressure fighters") thường cố gắng ở tiến cận gần đối thủ, tung những pha bùng nổ dữ dội bằng sự kết hợp của đòn đấm móc ngang và móc dưới. Chủ yếu các võ sĩ người México, Ireland, Mỹ gốc Ireland, Puerto Rico và người Mỹ gốc México đã phổ biến phong cách này. Một võ sĩ áp đảo thành công thường cần cái cằm (chin) tốt bởi vì việc áp đảo đối thủ thường liên quan đến việc bị trúng nhiều đòn jab trước khi có thể di chuyển vào vùng tung đòn hiệu quả. Các võ sĩ áp đảo thường hoạt động tốt nhất ở cự ly gần vì họ thường thấp hơn và ít tầm sải tay hơn so với đối thủ, do đó hiệu quả hơn ở cự ly gần, nơi các cánh tay dài hơn của đối thủ khó vận hành. Tuy nhiên, một số võ sĩ cao lớn cũng tương đối thành thạo trong chiến thuật áp đảo lẫn khoảng cách. Bản chất của phong cách này là không ngừng gây hấn, tạo áp lực. Nhiều võ sĩ thấp bé sử dụng đặc tính được cho là điểm yếu này để đảo ngược thành lợi thế của họ, sử dụng phòng thủ đan và dệt bằng cách uốn cong ở thắt lưng để cuối xuống bên dưới hoặc sang hai bên, tung các cú đấm. Không giống như việc chặn đòn, di chuyển né đòn khiến đối thủ bỏ lỡ một cú đấm, mất thăng bằng, điều này cho phép võ sĩ áp đảo di chuyển về phía trước qua vùng cánh tay mở rộng của đối phương và phản đòn. Một lợi thế khác biệt mà các võ sĩ áp đảo có là khi tung đòn đấm móc ngược đòn trên, họ có thể dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể của mình vào cú đấm đó, chẳng hạn như Mike Tyson nổi tiếng với việc ném những cú uppercut tàn khốc. Marvin Hagler được biết đến với cái cằm cứng rắn, sức đấm, đòn tấn công cơ thể và khả năng rình rập nổi tiếng. Một số võ sĩ áp đảo nổi tiếng là khó đánh, và chìa khóa để trở thành võ sĩ áp đảo là sự hiếu chiến, sức bền, cái cằm cứng và sự khéo léo.
Các võ sĩ áp đảo đáng chú ý có thể kể tới Henry Armstrong, Aaron Pryor, Julio César Chávez, Jack Dempsey, Shawn Porter, Miguel Cotto, Joe Frazier, Danny García, Mike Tyson, Manny Pacquiao, Rocky Marciano, Wayne McCullough, James Braddock, Gerry Penalosa, Harry Greb, David Tua, James Toney và Ricky Hatton. Phong cách này cũng đã được sử dụng bởi nhân vật Balrog trong tựa game Street Fighter.
Kết hợp phong cách
Về nguyên tắc, tất cả các võ sĩ đều có những kỹ năng riêng họ cảm thấy thoải mái nhất, và những võ sĩ ưu tú thường có thể kết hợp các phong cách và chiến thuật. Ví dụ, một võ sĩ khoảng cách đôi khi chuyển sang tiếp cận phản đòn, hoặc một võ sĩ sức mạnh có thể chuyển sang áp đảo bằng những cú đấm khủng khiếp của họ. Việc kết hợp phong cách không chỉ có trong Quyền Anh mà còn trong võ thuật, chẳng hạn như sự kết hợp của nhiều loại võ thuật khác nhau để tạo thành mixed martial arts hiện nay. Nhìn chung, các phong cách có lợi thế riêng, phù hợp cho từng người, tạo thành một chu kỳ với mỗi kiểu mạnh hơn so với kiểu này và yếu hơn so với kiểu khác. Các võ sĩ sức mạnh trong trận có xu hướng vượt qua võ sĩ áp đảo vì đòn đánh quá vượt trội của họ, võ sĩ áp đảo khi tiếp cận võ sĩ sức mạnh có khả năng dính đòn cực mạnh. Một ví dụ nổi tiếng về loại lợi thế đối đầu này là chiến thắng KO của George Foreman trước Joe Frazier trong trận đấu ban đầu của họ "The Sunshine Showdown". trái|nhỏ|Trận đánh giữa võ sĩ toàn năng [[Joe Louis và võ sĩ phản đòn Max Schmeling năm 1936. Schmeling phản đòn thành công, thắng trận 1936, nhưng thua trận tái đấu 1938.]] Mặc dù võ sĩ áp đảo bất lợi khi đối đầu võ sĩ sức mạnh, nhưng lại thường ưu thế hơn khi đấu với võ sĩ khoảng cách. Các võ sĩ khoảng cách thường thích giao tranh chậm hơn, giữ khoảng cách giữa mình và đối thủ. Võ sĩ áp đảo cố gắng thu hẹp khoảng cách đó và tung ra những hệ thống kỹ thuật liên hoàn dữ dội. Khi bị tiếp cận, võ sĩ khoảng cách mất rất nhiều hiệu quả chiến đấu, vì gặp khó trong việc tung ra những cú đấm mạnh. Ví dụ, võ sĩ áp đảo Joe Frazier, mặc dù thua trước võ sĩ sức mạnh George Foreman, nhưng lại có thể gây khó khăn cho Muhammad Ali trong ba trận đấu của họ. Hoặc Joe Louis sau khi giải nghệ thừa nhận rằng ông không thích võ sĩ áp đảo, hay nhà vô địch bất bại Rocky Marciano là võ sĩ áp đảo trong thời kỳ đỉnh cao của mình.
Ngoài ra, võ sĩ khoảng cách thường có lợi thế đối đầu với một võ sĩ sức mạnh, bởi tốc độ cao và giữ khoảng cách giúp họ dễ dàng né đòn lực lớn. Hầu hết các võ sĩ Quyền Anh cổ điển giữ khoảng cách này, chẳng hạn như Muhammad Ali đều có được ưu thế trước những tay đấm sức mạnh. Một ví dụ về trận đấu theo kiểu kết hợp phong cách này là trận đấu lịch sử của võ sĩ áp đảo Julio César Chávez và võ sĩ khoảng cách Meldrick Taylor. Trận đấu được đặt biệt danh là "Thunder Meets Lightning" như một sự ám chỉ đến sức mạnh áp đảo như tiếng sấm của Chávez và tốc độ vượt khoảng cách chói mắt của Taylor. Chávez là hình ảnh thu nhỏ của phong cách Quyền Anh México, trong khi tốc độ tay chân và khả năng ra đòn của Taylor đã giúp ông có lợi thế sớm. Chávez vẫn không ngừng tiếp cận để áp đảo Taylor, và do sức mạnh cú đấm lớn hơn nên Chávez đã từ từ đánh hạ Taylor, chiến thắng TKO ở phút 2:58, hiệp 12, tức chiến thắng khi chỉ còn 2 giây hết trận.
Trang thiết bị
Thiết bị thi đấu
trái|nhỏ|Găng tay, băng quấn tay, nón bảo vệ đầu trong Quyền Anh nghiệp dư. Với việc là một bộ môn võ thuật đối kháng, sử dụng tay là chủ yếu, các biện pháp phòng ngừa, tránh tổn thương xương ở bàn tay được tạo ra. Hầu hết các huấn luyện viên không cho phép các võ sĩ tập luyện và thi đấu mà không có quấn cổ tay và găng tay, ngoại trừ Quyền Anh tay trần. Băng quấn tay được sử dụng để cố định xương bàn tay, và găng tay được sử dụng để bảo vệ tay khỏi chấn thương va chạm, cho phép các võ sĩ tung ra những cú đấm với lực tối đa. Găng tay đã được yêu cầu trong thi đấu từ cuối thế kỷ XIX, dần dần được cả tiến, ngày càng lớn hơn và nặng hơn. Trước trận đấu, cả hai võ sĩ thỏa thuận về trọng lượng găng tay sẽ sử dụng trong trận, bởi găng tay nhẹ hơn sẽ cho phép các tay đấm hạng nặng gây nhiều sát thương hơn. Đội ngũ cả hai bên được phép kiểm tra bọc và găng tay của đối phương để giúp đảm bảo cả hai đều nằm trong các thông số kỹ thuật đã thỏa thuận và không có hành vi giả mạo nào xảy ra. Ở phần đầu, có dụng cụ bảo vệ miệng hỗ trợ bảo vệ răng, nướu khỏi bị chấn thương, đồng thời để đệm hàm, giúp giảm khả năng bị hóc. Cả hai võ sĩ đều phải đi giày đế mềm để giảm chấn thương do vô tình (hoặc cố ý) giẫm vào chân nhau khi giao đấu. Găng đấm và miếng bảo vệ răng là thiết bị bắt buộc của Quyền Anh. Nhìn chung, hệ thống trang phục sẽ được sử dụng trong một trận đấu phụ thuộc vào loại hình chiến đấu đó là, có phải là một Quyền Anh chuyên nghiệp hay không. Chẳng hạn như nghiệp dư có thêm trang bị là bảo vệ đầu và áo cho võ sĩ. Nhìn chung, còn có thêm những trang bị khác là tất chân, đai đỡ bụng, đai bảo vệ hạ bộ và áo choàng tượng trưng cho võ sĩ. nhỏ|Găng tay chuyên nghiệp lưu trữ của [[Muhammad Ali.]] Đối với găng, việc sản xuất găng tay đã phát triển và đôi khi vật liệu được sử dụng đã thay đổi. Da bò hoặc da dê đã được sử dụng để sản xuất, sử dụng rơm hoặc lông ngựa đã tăng độ đàn hồi, độ lớn của găng. Ngày nay, vật liệu hóa chất tổng hợp được sử dụng phổ biến, có ảnh hưởng lớn đến độ cứng hoặc khả năng bảo vệ của găng tay. Một trong những mục đích của găng tay là để bảo vệ các khớp ngón tay. Găng tay đấu quyền thông thường trông giống như một đôi găng tay phồng và được buộc quanh cổ tay ở mặt trong của cẳng tay. Có những loại găng tay thay vì có dây buộc lại có khóa dán. Có những loại găng tay của các thương hiệu khác nhau, được sản xuất bởi nhiều công ty và có nhiều màu sắc khác nhau. Một trong những điểm cần lưu ý là trọng lượng của găng, được sử dụng tuân theo các quy định giải đấu. Các võ sĩ băng bó tay và cổ tay trước khi đeo găng tay. Vì găng tay chuy