✨One ~Kagayaku Kisetsu e~
là một visual novel dành cho người lớn phát triển bởi Tactics, một thương hiệu thuộc NEXTON, và phát hành tại Nhật Bản vào ngày 29 tháng 5 năm 1998 trên hệ điều hành Windows của máy tính cá nhân (PC). Trò chơi được nhóm phát triển miêu tả như một . Một phần tiếp theo dựa trên rất ít nội dung của ONE với nhan đề ONE2 ~Eien no Yakusoku~ được BaseSon, một thương hiệu khác thuộc NEXTON, phát triển và cho ra mắt lần đầu trong tháng 4 năm 2002.
Hầu hết nhân viên tham gia phát triển trò chơi này về sau sáng lập nên thương hiệu visual novel Key. KSS sản xuất chuyển thể anime gồm bốn tập OVA dành cho mọi lứa tuổi từ năm 2001 đến năm 2002, được Muse Communication cấp phép phát hành tại thị trường Đài Loan. Arms phối hợp cùng Cherry Lips sản xuất tiếp ba tập OVA người lớn mang tựa ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ True Stories từ năm 2003 đến năm 2004, sau đó xê-ri được cấp phép phân phối bản tiếng Anh bởi Media Blasters. Các hợp tuyển manga, bốn tập tiểu thuyết và một số drama CD cũng được ra mắt.
Cách chơi
trái|Một đoạn hội thoại thường gặp giữa người chơi và nhân vật Mizuka trong visual novel ONE. ONE là một visual novel lãng mạn mà trong đó người chơi sẽ vào vai Orihara Kōhei. Gần như toàn bộ thời gian chơi chỉ là đọc những lời tự sự và hội thoại. Văn bản trong trò chơi thường kèm theo một nhân vật, đại diện cho người mà Kōhei đang giao tiếp, trên một họa nền; sprite có thể thay đổi thường xuyên theo biểu cảm nhân vật. Người chơi sẽ bắt gặp những CG artwork ở một số thời điểm trong kịch bản, khi đó họa nền và sprite nhân vật được thay thế bởi một họa phẩm riêng biệt, tùy tình huống. ONE đi theo một cốt truyện phân nhánh với nhiều cái kết khác nhau, và tùy thuộc vào những quyết định người chơi thực hiện trong suốt quá trình thưởng thức mà kịch bản sẽ tiến triển theo một hướng cụ thể. Maeda viết kịch bản cho Mizuka, Rumi và Mayu, còn Hisaya viết phần truyện của Misaki, Mio và Akane. Hinoue Itaru làm chỉ đạo nghệ thuật và thiết kế nhân vật kiêm đồ họa vi tính với sự hỗ trợ của Miracle Mikipon và Shinory. Ngoài YET11, âm nhạc trong game còn sử dụng những sáng tác của Orito Shinji, OdiakeS, M.S và Ishisan.
ONE ra mắt lần đầu vào ngày 29 tháng 5 năm 1998 dưới cả hai hình thức giới hạn và thông thường dành cho PC Windows 95 sử dụng ổ CD-ROM; ấn bản giới hạn còn kèm thêm đĩa soundtrack nguyên bản đầu tiên của trò chơi. Ngày 14 tháng 9 năm 2000, AI System tung ra ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Memorial Selection, đơn giản là tái bản ấn bản đầu tiên của visual novel, nhưng có giá thành rẻ hơn khoảng một nửa so với giá gốc. Ngày 24 tháng 1 năm 2003, ấn bản Windows lồng tiếng đầy đủ của game được NEXTON ra mắt, trong đó hỗ trợ khả năng tương thích với Windows 98/Me/2000/XP. Phiên bản điện thoại di động thứ hai là trên au, phát hành ngày 1 tháng 3 năm 2007 bởi KDDI. SoftBank Mobile tiếp tục tung ra phiên bản điện thoại di động thứ ba của ONE cũng trên FOMA vào ngày 2 tháng 5 năm 2007. Lần phát hành mới nhất trên PC bởi NEXTON là vào ngày 1 tháng 6 năm 2007 đã hỗ trợ thêm Windows Vista. Gyutto ra mắt thêm một ấn bản lồng tiếng đầy đủ và tương thích Vista của ONE vào ngày 26 tháng 2 năm 2010 ở dạng tải về trực tuyến. Phiên bản PlayStation và các phiên bản di động phát hành bởi KDDI và SoftBank Mobile không chứa nội dung người lớn. Video quảng cáo trò chơi hiện vẫn có thể tải về từ website ONE của Tactics. Mỗi tập tiểu thuyết tập trung vào một nữ chính trong nguyên tác, lần lượt từ tập một đến tập bốn là Mizuka, Akane, Misaki và Rumi. Một fan book chính thức dày 143 trang gồm các minh họa nghệ thuật trong MOON. và ONE mang tựa được Compass xuất bản vào ngày 31 tháng 10 năm 1998 (ISBN 4-87763-014-7). Tháng 10 năm 1999, Aspect phát hành một fan book khác dày 95 trang dành cho phiên bản ONE trên PS.
Compass cũng phát hành một hợp tuyển manga mang tựa Tactics Anthology Comic ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Chapter vào tháng 5 năm 1999. Hai tập trong bộ hợp tuyển ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Comic Anthology được Movic xuất bản vào tháng 10 và tháng 12 năm 1999. Ohzora ấn hành năm tuyển tập manga: ba quyển trong cùng xê-ri, và hai quyển cuối là những tập đơn có nội dung riêng lẽ. Loạt truyện ba tập có tên ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Anthology Comics, phát hành từ tháng 5 năm 2002 đến tháng 2 năm 2003. Tập đơn đầu tiên mang tựa ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Dōjin Selection, ra mắt trong tháng 9 năm 2003, và tập đơn thứ hai là Hidamari ONE ~Kagayaku Kisetsu e~, ra mắt trong tháng 1 năm 2004.
Anime
ONE được chuyển thể thành hai bộ OVA. Xê-ri phim đầu tiên dành cho mọi lứa tuổi do KSS sản xuất; bốn đĩa DVD và băng VHS đã phát hành ở Nhật Bản từ ngày 10 tháng 8 năm 2001 đến 24 tháng 5 năm 2002. Bộ OVA mọi lứa tuổi không bám sát nội dung của nguyên tác visual novel ONE và được xây dựng lại theo một thiết lập khác. Phim sau đó được tái phát hành trong hộp DVD một đĩa vào ngày 29 tháng 2 năm 2008; rồi được cấp phép phát hành tại Đài Loan bởi Muse Communication. Bộ OVA thứ hai dành cho người lớn, sản xuất bởi Arms và Cherry Lips với nhan đề ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ True Stories. Ba đĩa DVD và băng VHS chứa nội dung từng tập ra mắt từ ngày 21 tháng 11 năm 2003 đến 28 tháng 5 năm 2004. ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ True Stories sau đó được Media Blasters cấp phép phân phối bản tiếng Anh dưới tựa đề One: True Stories và ba tập phim ra mắt chung trong một đĩa phát hành ngày 16 tháng 8 năm 2005.
Âm nhạc và drama CD
Bản nhạc chủ đề duy nhất của ONE cũng chính là nhạc phẩm kết thúc visual novel do Orito Shinji sáng tác. Năm nhân vật nữ chính trong tác phẩm có các nét chủ đạo thuộc thể loại nhạc nền, ngoại trừ Mayu. Bài của Mizuka là ; bài của Rumi là ; bài của Misaki là ; bài của Mio là ; cuối cùng là bài của Akane có tựa đề . Một album phối lại mang tựa Sea Roars được gói kèm theo ấn bản Windows lồng tiếng đầy đủ của game vào ngày 24 tháng 1 năm 2003. Ba đĩa drama CD dựa theo visual novel nguyên tác do Movic sản xuất và phát hành từ ngày 6 tháng 11 năm 1999 đến 30 tháng 1 năm 2000. Hai drama CD khác dựa trên chuyển thể OVA mọi lứa tuổi ra mắt bởi KSS trong tháng 11 năm 2001 và tháng 7 năm 2002.
Bộ anime thứ nhất dùng năm nhạc phẩm chủ đề, còn anime thứ hai dùng ba nhạc phẩm. Bài hát mở đầu trong xê-ri thứ nhất là do ca sĩ Millio trình bày; ca khúc kết thúc tập phim đầu tiên là "Rose" của Yoshida Sayuri; ca khúc kết thúc tập phim thứ hai là "Impurity" của Terada Haruhi; ca khúc kết thúc tập phim thứ ba là của Toyoshima Machiko; và ca khúc kết thúc tập phim thứ tư là của Kawasumi Ayako. Nhạc phẩm mở đầu xê-ri thứ hai là ; ca khúc kết thúc của hai tập phim đầu tiên là và của tập phim cuối cùng là "The Gentle Magic"; cả ba nhạc phẩm đều được ca sĩ Sakamoto Rei thể hiện. Tất cả nhạc phẩm, gồm những ca khúc chủ đề và nhạc nền, của bộ anime thứ nhất đều do cố nhạc sĩ-ca sĩ Okazaki Ritsuko sáng tác, và được KSS phát hành đĩa soundtrack nguyên bản dưới tựa ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Music from the Animation (còn được gọi là ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Vocal Mini album) vào ngày 10 tháng 8 năm 2001. Trong khi đó bộ anime thứ hai sử dụng lại nhiều nhạc phẩm nền của visual novel nguyên tác, được ChamberRecords/HOBiRECORDS phát hành soundtrack nguyên bản vào ngày 21 tháng 11 năm 2003.
Đón nhận
Theo một bảng xếp hạng về doanh số thu được của các bishōjo game trên toàn quốc ở Nhật Bản, ấn bản Windows ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ Memorial Selection đã hiện diện bảy lần vào những thời điểm khác nhau. Trò chơi xuất phát ở vị trí thứ Sáu trong bảng xếp hạng suốt hai tuần đầu tháng 9 năm 2000. Trong hai tuần đầu tháng 1 năm 2001, Memorial Selection giữ hạng #30, Memorial Selection tái xuất ở vị trí #41 từ cuối tháng 2 đến cuối tháng 3 năm 2001, và hai tuần kế tiếp giữ hạng #32. và lần cuối cùng là trong hai tuần đầu tháng 7 năm 2001, trụ ở vị trí #37. Ấn bản lồng tiếng đầy đủ của ONE trên Windows xuất phát ở hạng #12 trong tốp 50, và rơi xuống hạng #40 trong hai tuần kế tiếp.
Chuyển thể OVA mọi lứa tuổi của ONE chịu những đánh giá có phần tiêu cực của nhà phê bình Carlos Ross trên trang THEM Anime Reviews. Tuy nhìn có vẻ "dễ thương", ông chê trách các nhân vật "không có những cá tính để phá vỡ khuôn sáo của [thể loại] mô phỏng hẹn hò". Dù vậy, Ross đánh giá cao phong cách nghệ thuật, với lời bình "khá đẹp, có phong cách theo kiểu truyền thống hơn các CG." Nhà phê bình Chris Beveridge trên Mania.com đã nhận xét về xê-ri OVA người lớn ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ True Stories như sau: "One: True Stories là thể loại phù hợp cho người mới xem [anime] hay cho các cặp đang yêu khi vừa chú trọng vào cốt truyện và cảm xúc nhân vật lại vừa [chú trọng] vào sex, nếu không nói là còn nhiều hơn thế." Các nhân vật được nhìn nhận là "có sức thu hút", còn cốt truyện được miêu tả là "hoang đường nhưng là sự hoang đường đáng yêu." Toàn bộ phát triển viên khác của ONE, cũng như tác phẩm trước đó là MOON., đã rời khỏi Tatics và thành lập công ty Key, một thương hiệu của Visual Art's, rồi tung ra siêu phẩm Kanon vào năm 1999. Nhà biên kịch Nasu Kinoko của công ty Type-Moon chia sẻ rằng ông đã bị cuốn hoàn toàn vào "Thế giới Vĩnh cửu" trong ONE—trò chơi mà theo Nasu đã tác động không nhỏ đến sự nghiệp của ông sau này, thể hiện rõ ràng nhất trong Tsukihime. Khái niệm về sự chuyển đổi từ thế giới thật sang Thế giới Vĩnh cửu huyền bí trong ONE cũng được so sánh với tiểu thuyết Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới của tiểu thuyết gia Murakami Haruki, trong đó sử dụng một lối phân tách giữa thực tế và ảo tưởng.
Chịu ảnh hưởng từ visual novel To Heart của Leaf ra đời năm 1997, những nhân viên phát triển ONE đã áp dụng vào trò chơi một khái niệm mới: mở đầu là những khoảnh khắc lãng mạn nồng ấm xen lẫn hài hước, kế đến là nỗi đau của sự chia cắt và mất mát, cuối cùng là sự tái hợp của những cung bậc cảm xúc. Họ gọi đấy là những "trò chơi cướp nước mắt" của dòng game bishōjo, mà về sau đã giúp tạo nên thể loại và phát triển thành một hướng đi mới cho các visual novel đời kế tiếp. "Nakige" trở thành một mỹ từ đặc hữu khi miêu tả những tác phẩm của Key, bởi họ tiếp tục đưa công thức trên vào nhiều tựa game kế tiếp, điển hình là Kanon, AIR vào năm 2002 và CLANNAD vào năm 2004. Các nhà phê bình bishōjo game ngày nay vẫn xem ONE như một tác phẩm ngang hàng với những công trình nổi bật của Key, là tiền thân của những thành công to lớn mà công ty này gặt hái được.
Một phần kế tiếp được phát triển dựa theo kịch bản gốc của visual novel ONE mang tựa do công ty BaseSon, một thương hiệu khác của NEXTON, thực hiện. ONE2 phát hành ngày 26 tháng 4 năm 2002 và tái bản vào ngày 25 tháng 4 năm 2003 với phần lồng tiếng được thêm vào. ONE2 cũng sử dụng khái niệm Thế giới Vĩnh cửu làm hướng đi chính như ONE. Thế giới Vĩnh cửu trong tác phẩm này được giải thích rõ ràng hơn tiền thân của nó, mặc dù hai trò chơi có kịch bản khác nhau ở một mức độ nhất định, cũng bởi các nhà biên kịch của ONE không tham gia chế tác ONE2.
Các nhân vật trong ONE đã xuất hiện trong một số sản phẩm truyền thông khác không liên quan đến xê-ri. Sáu nhân vật nữ chính trong ONE đã góp mặt trong dōjin game Eternal Fighter Zero của hãng Twilight Frontier. Ngoài ra, nhân vật Nanase Rumi cũng xuất hiện như một vai quần chúng trong một vài tập phim của bộ anime chuyển thể Kanon do Kyoto Animation sản xuất. Họa sĩ Hinoue Itaru, chỉ đạo nghệ thuật của ONE, đã thêm các minh họa từ ONE vào cuốn artbook White Clover: Itaru Hinoue Art Works phát hành năm 2009 của bà.
Hàng trên: Mizuka, Rumi và Misaki;
Hàng dưới: Mio, Mayu và Akane. Visual novel _ONE ~Kagayaku Kisetsu e~_ của Tactics phát hành năm 1998 có dàn nhân