✨Nguyễn Phong Di

Nguyễn Phong Di

Nguyễn Phong Dy (阮豐貽), nguyên danh Nguyễn Thái Bạt, hỗn danh Lý Phục Hán, sinh năm 1889, tại làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Trung Kỳ (nay là làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ), thác năm 1923 tại Huế. Cụ là một trong những sĩ đại phu đã nhiệt thành tham gia phong trào Minh Tân và Duy Tân ngay từ đầu. Chân dung cụ Nguyễn Phong Dy thời lưu học Dobun Gakko.

Lịch sử

Cụ Nguyễn Phong Dy sinh vào năm 1883 ở Thanh Hóa và thác năm 1923 tại Huế. Hiện cụ có hai chốn an nghỉ nghìn thu là Huế (mộ thật) và Thanh Hóa (mộ nghi táng trong lăng) theo tục cổ truyền.

Theo tộc phả, cụ sinh chính xác năm 1883 ở thôn Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, quận Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Trung Kỳ (bây giờ là thôn Nguyệt Viên 2, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ). Theo giấy chứng sinh, tên cụ được chép là Nguyễn Thái Bạt (阮泰拔), nhưng vì sinh năm Mùi nên cha mẹ gọi là , nên đến thành niên cụ tự đặt biểu tự là Phong Dy (豐貽). Có nhiều tài liệu hay chép là "di", nhưng thủa ấy đã ký chữ Pháp là "dy". Toàn bộ cuộc đời chí sỹ Nguyễn Phong Dy có trong Quốc Triều Hương Khoa Lục và Nguyễn Phong Dy Truyện.

Năm 1904, Nguyễn Phong Dy ở trong đoàn thanh niên đầu tiên được Phan Bội Châu cho đi Nhật lưu học, nhưng lúc ấy bơ vơ nên cả hội phải đi ăn xin ở vỉa hè hết sức cơ cực (việc này hiện giờ không thấy sách vở nào dám nhắc). Sau đó có một người tên là Asaba Sakitaro giang tay cứu giúp, riêng Nguyễn Phong Dy ít tuổi nhất nên được vào học Đồng Văn Học Hiệu (同文学校). Cụ học tiếng Nhật và Hán ngay tại trường, rồi được Phan tiên sinh cho cùng với Phan Thế Mỹ và Lâm Quảng Trung thành Giao Tế Bộ nhằm vận động gây ảnh hưởng cũng như mộ thêm thanh niên ở An Nam xuất dương.

Năm 1910, hội Đông Du bị trục xuất, Nguyễn Phong Dy lại nhận trách nhiệm hộ tống Phan Bội Châu và hoàng thân Cường Để về Thượng Hải rồi quành xuống Quảng Châu. Cụ được Phan cho đi học Bảo Định Quân Hiệu ở tận Bắc Kinh, mà vì đã có thời gian lưu học Nhật rất danh giá nên ngay từ đầu đã mang quân hàm đại úy. Nguyễn Phong Dy học chưa được một năm thì bỏ trường đi theo Tôn Trung Sơn làm cách mạng, cụ lấy tên mới là Lý Phục Hán (李復漢). Sau cách mạng Tân Hợi 1911, cụ có thời gian ngắn làm phụ tá cho Tôn, được Tôn tiên sinh gả dưỡng nữ Lâm Thị. Nhưng Phong Dy cự tuyệt bằng đối liễn: "Thiên vị anh hùng tiểu muội khái ; Cố giao hồng phấn bạn dong công". Chính phủ cách mạng liệt cụ vào nhóm khai quốc công thần.

Năm 1912, Viên Thế Khải đảo chính nên các cựu hội viên Đông Du cũng lao đao. Phan Bội Châu trốn đi Tiêm La, còn Nguyễn Phong Dy cùng đường phải về quê nhà ở Thanh Hóa. Lúc này cụ mới chịu thành thân với một bà người Quảng Bình. Đây là con gái của "ông Bạch Xỉ" Đoàn Chí Tuân, lĩnh tụ Cần Vương. Từ thời gian ấy, cụ chuyên tâm học thêm tiếng Pháp và giùi mài kinh sử thôi.

Năm Khải Định thứ 4 (1919), Nguyễn Phong Dy cũng lều chõng đi thi và chiếm giải nguyên, trở thành vị quan trạng cuối cùng của khoa cử phương Đông. Điều lạ là, năm ấy cũng năm Mùi. Cụ được triều đình bổ vào Ban Tu Thơ, đồng thời đi dạy hợp đồng ở trường Hậu Bổ Huế. Nhưng năm 1923, Nguyễn Phong Dy lâm chung. Báo chí lúc ấy truyền loan rằng cụ bị người Pháp đầu độc ở trong tù, nhưng các tài liệu gia đình đều nói cụ nhiễm phong hàn vì vốn sức khỏe đã yếu từ trước. Lúc đầu cụ nằm ở chỗ phường Nam Giao, nhưng sau đó con cháu đưa ra Cồn Hến. Sau này vì đất nước chia hai nên các con cháu ở quê nhà chỉ có lập đàn vô vong ở khu nghĩa địa Nguyệt Viên. Chỗ ấy còn đối liễn của phái đoàn sĩ phu Nghệ An kính biếu: "Một nén hương đưa người chí sỹ ; Trăm năm còn mãi tiếng đình nguyên". Quyển truyện về cuộc đời cụ do cụ Phan Sào Nam chấp bút vào năm 1917, in trên Binh sự tạp chí và Quảng Châu tảo báo san hành xã.

Thân quyến

Cụ Nguyễn Phong Dy có tất cả 4 người con, gồm 2 trai 2 gái, nhưng hầu hết không sống thọ vì chắc sức khỏe di truyền kém. Nhưng người con nuôi Trần Quang Viên của cụ cũng là con của em gái thì lại rất đa tài. Ông cũng có thời gian làm quan nhưng tính cách bốc đồng nên bỏ đi đá bóng tròn (hội túc cầu Hồng Bàng Cotonkin) với đánh quyền anh giật giải nhất mấy lần, sau này chuyên tâm làm y sỹ ở trong nhà thương Đồn Thủy, thăng tới quan hai (trung úy). Chính vì điều này nên hồi cải cách, lăng mộ Nguyễn Phong Dy bị du kích đập phá, dỡ cả ngói với cột đi làm trụ sở ủy ban xã.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phong Dy** (阮豐貽), nguyên danh **Nguyễn Thái Bạt**, hỗn danh **Lý Phục Hán**, sinh năm 1889, tại làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Trung Kỳ
**Nguyễn Phúc Dĩ Ngu** (chữ Hán: 阮福以娛; 1885 – 16 tháng 9 năm 1942), phong hiệu **Ngọc Lâm Công chúa** (玉林公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Dĩ Hy** (chữ Hán: 阮福以嬉; k. 1887 – 1907), thường bị gọi nhầm là **Hỷ Hỷ**, phong hiệu **Ngọc Sơn Công chúa** (玉山公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn
**Nguyễn Phong Sắc** (1902-1931) là một chí sĩ cách mạng Việt Nam. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Chi bộ Cộng sản Bắc Kỳ và một trong những Ủy viên Ban
**Nguyễn Phong Hồng Duy** (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái cho câu
**Nguyễn Phong Việt** (sinh năm 1980) là một nhà thơ, nhà báo người Việt Nam. Các tập thơ đã xuất bản của anh đã tạo nên những hiện tượng xuất bản ở Việt Nam khi
Muôn Kiếp Nhân Sinh tập 2 của tác giả Nguyên Phong tiếp tục là những câu chuyện tiền kiếp, nhân quả luân hồi hấp dẫn gắn liền với những kiến giải uyên bác về quá
**Nguyễn Phong** (1561-1643) là đại thần nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Phong người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ nhỏ
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Giuse Nguyễn Năng** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn, Chủ
**Nguyễn Tuân** (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn người Việt Nam. Nguyễn Tuân có sở trường về tùy bút và ký. Ông viết văn với một phong
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
nhỏ|tphải|Khu cảng biển Hải Phòng **Hệ thống giao thông của Hải Phòng** đóng vai trò quan trọng trong việc vận tải hàng hóa và hành khách từ thành phố cảng lớn nhất Việt Nam. Hải
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Bặc** (chữ Hán: 阮匐; 924 - 7 tháng 11 năm 979), hiệu **Định Quốc Công** (定國公), là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn
**Nguyễn Cảnh Chân** (chữ Hán: 阮景真; 1355 - 1409) là danh tướng chống quân Minh thời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông có nguồn gốc từ Đông Triều, Quảng Ninh trước khi về
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Đàn Nam Giao triều Nguyễn** (tiếng Hán: 阮朝南郊壇) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, quận Thuận Hóa, thành
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Nguyễn Đức Cảnh** (2 tháng 2 năm 1908 – 31 tháng 7 năm 1932) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Ông là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
Catbi Plaza. Hải Phòng là một trung tâm kinh tế của miền bắc nói riêng và của cả Việt Nam nói chung. Dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng là thành phố cấp 1, ngang hàng
**Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh** (sinh năm 1955) là một giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt. Trước đó, ông
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
nhỏ|Danh Sỹ Nguyễn Bá Trác **Nguyễn Bá Trác** (chữ Hán: 阮伯卓; 1881 – 1945), bút hiệu _Tiêu Đẩu_, là quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Văn Giáp** (1837 -1887), tục gọi là **Bố Giáp** (vì ông từng làm chức Bố chính tỉnh Sơn Tây), là một lãnh tụ và danh tướng trong phong trào Cần Vương ở vùng Tây
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
Có thể bạntừng nghe nhiều về “thần dược” mang tên sữa ong chúa. Tuy nhiên bạn đã biết hếtcông dụng và cách sử dụng của nó hay chưa?Sữaong chúa – sản phẩm làm đẹp da
Có thể bạn từng nghe nhiều về “thần dược” mang tên sữa ong chúa. Tuy nhiên bạn đã biết hếtcông dụng và cách sử dụng của nó hay chưa?Sữaong chúa – sản phẩm làm đẹp
**Nguyễn Trọng Trì** (1854-1922), hiệu **Tả Am**; là nhà thơ và là một nghĩa quân trong phong trào Cần Vương ở Bình Định, Việt Nam. ## Thân thế Gần cuối thế kỷ 19 ở Bình
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
[[Nhà hát lớn Hải Phòng]] **Kiến trúc của thành phố Hải Phòng** là sự pha trộn hài hòa giữa 2 nền văn hóa Á - Âu. Sự pha trộn này tạo ra cho thành phố
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
**Nguyễn Bính** (tên thật là **Nguyễn Trọng Bính**; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài
**Nhiếp Phong** (tiếng Trung Quốc: phồn thể: 聶風; giản thể: 聂风; Bính Âm: Nìe Fēng, tiếng Anh: Nip Fung) là một trong hai nhân vật chính trong bộ truyện Phong Vân của tác giả Mã
**Nguyễn Thị Duệ** (chữ Hán: 阮氏叡; 1574-1654), hiệu **Diệu Huyền**, là một nữ danh sĩ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. ## Tiểu sử **Nguyễn Thị Duệ**, có tài liệu