Nguyễn Nộn (chữ Hán: 阮嫩; 1160 - 1229) là một sứ quân nổi dậy chống lại triều đình vào cuối thời Nhà Lý, đầu thời Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế
Sử sách chép không thống nhất về xuất thế của Nguyễn Nộn. Theo các sách Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, ông vốn là cư sĩ ở hương Phù Đổng (nay là xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Theo Đại Việt sử lược, Nguyễn Nộn là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát.
Sứ quân thời loạn
Phản nhà Lý
Tháng 8 năm 1218, Nguyễn Nộn bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, do đó triều đình xuống chiếu bắt giam ông.
Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông có tài, bèn tâu vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông bằng lòng cho. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, giữ hương Nghệ An, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh, không thể chế ngự được. Họ Trần cũng đang mưu tính lấy ngôi nhà Lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.
Phản Trần Tự Khánh
Tuy nhiên, theo Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời thời Trần, Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại cả nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 mới xuất hiện trên chính trường.
Theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang lừa mời ông về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.
Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà Nguyễn Nộn thần sắc vẫn tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, đối lại, ông mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy, nhưng lại nhảy hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông ra lại cho làm tướng và đem người con gái của người dì gả cho. Sau đó Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.
Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ Hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.
Sau trận đó, ông được Trần Tự Khánh giao giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng châu rước Huệ Tông không được liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.
Năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết chết được Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.
Tuy nhiên lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).
Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và thái hậu đang ở Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống họ Trần. Từ đó cục diện trong nước lúc này đại thể hình thành ba thế lực: Phía bắc là Nguyễn Nộn, phía đông là Đoàn Thượng, phía nam là Trần Tự Khánh.
Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước Vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường.
Kết cục
Kết cục của Nguyễn Nộn cũng không được sử sách chép thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch thời gian khá nhiều. Chỉ có 1 điểm chung duy nhất là: các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.
Năm 1219
Theo Đại Việt sử lược, tháng 6, năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông mà Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phí Thám ra hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).
Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.
Năm 1229
Theo các sách sử khác, sau năm 1219 Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.
Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.
Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó ông gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lừng lẫy. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương (懷道孝武王).
Sau đó Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông chia nha tướng canh giữ riêng chỗ công chúa ở. Vì thế công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.
Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm, Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh. Nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã.
So sánh các nguồn sử liệu
Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn Toàn thư và Cương mục nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ năm 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông năm 1219. Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, "vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh" và sau đó vẫn còn sống chứ không "ốm chết" như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những hành trạng sau đó của ông như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo vương như Toàn thư và Cương mục ghi.
Ông mất ngày 1 tháng 3 năm 1229. Lăng mộ của ông được đặt tại xã Phù Dực (Phù Đổng - Gia Lâm ngày nay). Đền thờ của ông tại làng Phù Dực và làng Công Đình (xã Đình Xuyên)
Gia đình
- Vợ: Công chúa Ngoạn Thiềm, là con gái của Phụ Quốc Thái úy Trần Thừa và là chị gái của vua Trần Thái Tông. Bà được Trần Thủ Độ gả cho Nguyễn Nộn với mục đích giảng hoà và thăm dò nội tình của vùng Nộn chiếm cứ.
Trong văn hoá đại chúng
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Nộn** (chữ Hán: 阮嫩; 1160 - 1229) là một sứ quân nổi dậy chống lại triều đình vào cuối thời Nhà Lý, đầu thời Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Tập đoàn giáo dục Nguyễn Hoàng** có tên đầy đủ là **Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Nguyễn Hoàng** (tên tiếng Anh: **Nguyen Hoang Group** - **NHG**), hoạt động trong lĩnh vực đầu
**Nguyễn Cảnh Toàn** (28 tháng 9 năm 1926 – 8 tháng 2 năm 2017) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
nhỏ| [[Núi lửa Mayon ở Philippines có nón núi lửa đối xứng. ]] **Nón núi lửa** (chữ Anh: _Volcanic cone_) là gò núi do vật chất phun ra của núi lửa tích tụ và chất
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyễn Cao** (1837 - 1887), tên đầy đủ là **Nguyễn Thế Cao**, hiệu là _Trác Hiên_; là một danh tướng nhà Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. ## Tiểu
**Nguyễn Nhật Ánh** (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955) là một nam nhà văn người Việt Nam. Được xem là một trong những _nhà văn hiện đại xuất sắc nhất Việt Nam_ hiện nay,
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Nguyễn Quan Quang** (chữ Hán: 阮觀光, 1222-?), có tài liệu ghi là **Nguyễn Quán Quang** hay **Trần Quán Quang**, là một danh thần thời nhà Trần. Ông được biết nhiều với giai thoại đỗ Tam
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Cầy thảo nguyên**, còn gọi là **dúi đồng cỏ** hay là **sóc chó** (tên khoa học **Cynomys**) là loài gặm nhấm ăn cỏ biết đào hang có nguồn gốc từ những đồng cỏ ở Bắc
**Nguyễn Cửu Đàm** (阮久潭, ?-1777) là danh tướng và cũng là nhà doanh điền thời chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được lịch sử ghi nhận là _nhà quy hoạch Sài Gòn đầu
**Nguyễn Đức Cảnh** (2 tháng 2 năm 1908 – 31 tháng 7 năm 1932) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Ông là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và
**Nguyễn Quang Riệu** (sinh 15 tháng 6 năm 1932, tại Hải Phòng - mất 5 tháng 1 năm 2021, tại Paris, Pháp), là nhà vật lý thiên văn Việt kiều tại Pháp. Ông là người
**Ưng Bình Thúc Giạ Thị** (膺苹菽野氏, 1877 - 1961), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Bình** (chữ Hán: 阮福膺苹), hiệu **Thúc Giạ Thị** (菽野氏); là một hoàng thân nhà Nguyễn và là nhà thơ Việt
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Cây chuối non đi giày xanh** là tác phẩm viết cho tuổi học trò của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả kể về những câu chuyện xoay quanh các nhân vật là bạn học
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Hoằng Dụ** (阮弘裕, ? - 1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), Thanh Hóa, Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
nhỏ|Giáo sư Nguyễn Thúc Hào **Nguyễn Thúc Hào** (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là một giáo sư người Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Tấn** (阮縉, 1822-1871), tự là **Tử Vân**, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy
**Nguyễn Văn Chung** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983) là một nhạc sĩ người Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Văn Chung sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983 tại Thành
**Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản** (sinh năm 1956) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam, hiện là giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng và chủ tịch Uỷ ban Thánh Kinh trực
**Nguyễn Viên** (1752-1804) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Viên quê làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sinh ra trong một gia
thumb| 7 tiền Phi Long, tiền thưởng bằng bạc được đúc vào năm 1833, niên hiệu [[Minh Mạng thứ 14, mặt trước là hình rồng 5 móng lượn hình chữ S, với đường kính 41
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ
**Nguyễn Hồng Nghi** (19 tháng 12 năm 1918 – 12 tháng 2 năm 1991) là một trong những nhà nhiếp ảnh, đạo diễn điện ảnh tiên phong của điện ảnh cách mạng Việt Nam, nguyên
nhỏ|Cao nguyên Anatolia vào mùa đông. **Cao nguyên Anatolia**, hoặc gọi **cao nguyên Thổ Nhĩ Kì**, ở vào bán đảo Tiểu Á - phía tây của châu Á, thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì.
**Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn** (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1952) là một giám mục Công giáo người Việt, hiện là giám mục chính tòa của Giáo phận Bà Rịa và Chủ tịch Uỷ ban
**Nguyễn Trọng Tạo** (1947– 2019) là nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo, họa sĩ Việt Nam. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012 với tư cách là một
**Nguyên Hồng** (5 tháng 11 năm 1918 – 2 tháng 5 năm 1982), tên khai sinh **Nguyễn Nguyên Hồng,** là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà