✨Mikoyan MiG-29K

Mikoyan MiG-29K

Mikoyan MiG-29K (; tên ký hiệu của NATO: Fulcrum-D) là một loại máy bay tiêm kích đa năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, được Nga phát triển và chế tạo. Việc phát triển bắt đầu vào cuối thập niên 1980 do Phòng thiết kế Mikoyan thực hiện dựa trên mẫu máy bay tiêm kích MiG-29M. Mikoyan mô tả nó là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ 4+.

Mẫu sản xuất MiG-29K hiện nay khác với mẫu MiG-29K sản xuất năm 1991 ở các đặc tính trang bị kỹ thuật như: 1 radar đa năng mới, có tên gọi là Zhuk-ME; buồng lái với các màn hình màu đa năng và sử dụng HOTAS (hands-on-throttle-and-stick), các tên lửa không đối không RVV-AE, R-27ER/ET, R-73; tên lửa chống radar và tên lửa chống hạm cũng như các vũ khí không đối đất dẫn đường chính xác. Phòng thiết kế Mikoyan vẫn không ngừng phát triển MiG-29K mặc dù thiếu hụt tài chính kể từ năm 1992. Chương trình MiG-29K đã được thúc đẩy vào cuối thập niên 1990 để đáp ứng yêu cầu của Ấn Độ về một loại máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay sau khi họ mua một tàu sân bay cũ từ Liên Xô. Chiếc MiG-29K đầu tiên được chuyển giao cho Hải quân Ấn Độ vào năm 2009. Với những chiếc Su-33 sắp hết thời hạn phục vụ vào năm 2010, Hải quân Nga cũng đã đặt hàng thay thế chúng bằng MiG-29K.

Lịch sử phát triển

Nguồn gốc

thumb|Một chiếc [[Mikoyan MiG-29M|MiG-29M. Mikoyan quyết định dùng MiG-29M để chế tạo phiên bản hải quân với tên gọi định danh mới của phiên bản này là MiG-29K]] Đề án MiG-29K đã được khởi xướng đầu thập niên 1980 khi Hải quân Liên Xô đã đưa ra yêu cầu phát triển một loại tiêm kích siên âm cho tàu sân bay. Phòng thiết kế Mikoyan (OKB MiG) đã giới thiệu một phiên bản của MiG-29 được trang bị một bộ bánh đáp gia cố khỏe hơn và phần đuôi với một móc hãm với tên gọi MiG-29KVP (Korotkii Vzlet i Posadka - cất hạ cánh trên đường băng ngắn). Lần thử nghiệm bay đầu tiên vào ngày 21 tháng 8 năm 1982 đã cho thấy mẫu thử nghiệm cần có động cơ mạnh hơn và diện tích cánh lớn hơn. OKB MiG đã quyết định phát triển phiên bản hải quân từ mẫu máy bay MiG-29M (Sản phẩm 9.15) với những sửa đổi của bộ bánh đáp và đôi cánh gấp mới lớn hơn, được đặt tên là Sản phẩm 9-31 hay phổ biết hơn là MiG-29K (Korabelniy - trang bị trên tàu).

MiG-29K bay thử trên đất liền lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 7 năm 1988 tại Saky, do phi công thử nghiệm T. Aubakirov điều khiển. Ngày 1 tháng 11 năm 1989, cùng ngày với cuộc thử nghiệm Sukhoi Su-27K, Aubakirov đã thực hiện việc hạ cánh đầu tiên của MiG-29K trên boong tàu sân bay Tbilisi (nay là tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov). Sau đó, cú take-off (cất cánh) đầu tiên của MiG-29K từ boong của tàu sân bay cũng được thực hiện thành công. Trong giai đoạn 1989-1991, MiG-29K tiếp tục được thử nghiệm trên tàu Đô đốc Kuznetsov. MiG-29K khác biệt đáng kể so với mẫu sản xuất MiG-29 ở các đặc điểm trang bị như: 1 radar đa năng mới có tên gọi Zhuk; buồng lái với màn hình hiển thị đơn sắc và sử dụng thanh điều khiển kiểu HOTAS (hands-on-throttle-and-stick); tên lửa không đối không RVV-AE; các loại tên lửa chống radar và chống tàu; cũng như các loại vũ khí không đối đất dẫn đường chính xác. Để bảo vệ động cơ khỏi FOD, cửa dẫn khí của động cơ được gắn các vỉ lưới có thể thu vào được nhằm thay thế các chi tiết phức tạp hơn trên MiG-29.

Hồi sinh

nhỏ|phải|MiG-29K sơn màu của [[Hải quân Ấn Độ tại MAKS]] Chương trình MiG-29K được hồi sinh sau khi Hải quân Ấn Độ có quyết định mua chiếc tàu sân bay của Hải quân Liên Xô cũ là chiếc Đô đốc Gorshkov. Ấn Độ có nhu cầu trang bị các máy bay tiêm kích đa năng cho tàu sân bay của mình với kích cỡ tàu hạn chế, kích cỡ của MiG-29K đã đáp ứng được như cầu này. Nhóm chiến đấu của tàu có thể sẽ gồm 12 chiếc MiG-29K. Máy bay có một hệ thống điều khiển từ xa, diện tích bề mặt cánh gấp lớn (42 m² so với 38 m²), phương tiện bảo vệ động cơ khi máy bay vận hành ở các sân bay dã chiến, gia cố bộ phận hạ cánh, móc hãm, có các phương pháp đặc biệt để chống ăn mòn trên khung máy bay.

Chiếc MiG-29KUB đầu tiên phát triển cho Hải quân Ấn Độ thực hiện chuyến bay đầu tiên tại trung tâm thử nghiệm máy bay Zhukovsky của Nga vào ngày 22 tháng 1 năm 2007.

Một vấn đề là thiếu máy bay AWACS cho tàu sân bay có thể được giải quyết ít nhất một phần bằng sự phát thích hợp của nền tảng MiG-29KUB hai chỗ. Hợp đồng hiện nay cũng cung cấp một lựa chọn cho 30 chiếc máy bay khác với việc giao hàng tới tận năm 2015, nhằm trang bị cho các tàu sân bay nội địa của Hải quân Ấn Độ do Cochin Shipyard Limited (CSL) chế tạo. Đó là lý thuyết để có thể phát triển nền tảng MiG-29KUB với radar mạnh hơn cùng với thiết bị liên kết dữ liệu bay (IFDL) được mã hóa TKS-2/R-098 cho phép nhiều chiếc MiG-29KUB liên kết với nhau hiệu quả, tạo vùng bao phủ nhằm cảnh báo sớm bên cạnh việc còn là máy bay tiêm kích thích hợp trong việc truy đuổi. Việc sử dụng một tỷ lệ đáng kể MiG-29KUB sẽ có thể tăng khả năng hoạt động trong phạm vi chiến tranh điện tử và đánh chặn từ xa.

Hãng sản xuất máy bay Nga MiG đã ký hợp đồng mua 24 hệ thống chỉ thị mục tiêu và hiển thị trên mũ bay TopSight của tập đoàn Thales (Pháp) tại triển lãm hàng không ở Farnborough năm 2012 để trang bị cho các máy bay tiêm kích trên hạm MiG-29K và MiG-29KUB dự định đưa vào trang bị cho không quân hải quân Nga sau khi kiểm nghiệm thành công trên các máy bay MiG của Ấn Độ.

nhỏ|phải|MiG-29K tại sân bay [[Viện nghiên cứu bay Gromov|LII Zhukovskiy]] Hải quân Nga dự kiến sẽ mua MiG-29K cho chiếc tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov duy nhất của mình. Tờ Bulletin Reports đưa tin vào năm 2009, một nguồn tin trong Bộ Quốc phòng Nga nói rằng có thể một hợp đồng sẽ được ký vào năm 2011. Thông tin này đã được xác nhận bởi tổng công trình sư của một trong những doanh nghiệp quốc phòng sản xuất nguyên liệu chế tạo máy bay MiG-29K, trong khi Mikoyan không đưa ra bình luận gì.

Theo một ấn phẩm phát hành của Bộ Quốc phòng Nga, Hải quân Nga có một phi đội gồm 19 chiếc Su-33 hoạt động trên tàu sân bay, số máy bay này sẽ hết hạn sử dụng vào năm 2015. Việc sản xuất mới những chiếc Su-33 là có thể nhưng không hiệu quả về kinh tế vì số lượng máy bay là nhỏ. Cùng lúc, MiG-29K sẽ thuận tiện hơn, vì Hải quân Ấn Độ cũng đã đặt mua loại máy bay này. Konstantin Makienko giải thích rằng MiG-29K rẻ hơn, tiết kiệm hơn trong sản xuất và phát triển do đặt chế tạo hàng loạt. Ấn Độ đã chi 730 triệu USD cho việc phát triển và chuyển giao 16 chiếc MiG-29, trong khi 24 chiếc khác giao cho phi đội của Nga sẽ có giá khoảng 1 tỉ USD.

Thiết kế

Tính năng

Máy bay tiêm kích đa năng trang bị cho tàu sân bay MiG-29K được thiết kế nhằm bảo vệ vùng không gian phía trên của nhóm tàu chiến đấu, chiếm ưu thế trên không và tiêu diệt các mục tiêu trên đất liền cũng như trên mặt nước với các vũ khí dẫn đường chính xác cao, MiG-29K được chế tạo để có thể hoạt động ngày, đêm và trong mọi điều kiện thời tiết. Máy bay được tối ưu cho việc triển khai trên các tàu sân bay có lượng choán nước trung bình. MiG-29K và MiG-29KUB cũng trang bị với một hệ thống tiếp nhiên liệu khi bay. Tầm theo dõi của radar là 0.83 - 0.85 của tầm phát hiện. Trong chế độ không đối đất, radar có thể phát hiện một chiếc xe tăng từ khoảng cách 25 km và một cây cầu từ khoảng cách 120 km, một tàu khu trục hải quân có thể bị phát hiện từ xa 300 km và radar có thể theo dõi cùng lúc 2 mục tiêu dưới mặt đất, mặt biển. Radar có trọng lượng 220 kg và vùng quét: góc phương vị là +/- 85 độ, góc tà là +56/-40 độ. Anten là một mảng pha quét điện tử có rãnh và có đường kính 624 mm. MiG-35 là đối thủ của Eurofighter Typhoon, F/A-18E/F Super Hornet, Dassault Rafale, JAS 39 Gripen và F-16 Fighting Falcon trong cuộc đua giành hợp đồng cung cấp 126 máy bay chiến đấu đa năng cho Không quân Ấn Đô trong cuộc cạnh tranh MRCA của Ấn Độ. Có một số nguồn tin nói rằng MiG-29K/KUB cung cấp cho Ấn Độ cũng có thể được trang bị radar Zhuk-AE. Cũng có thể Hải quân Nga sẽ dùng radar Zhuk-AE 'AESA' thay cho radar Zhuk-ME trên những chiếc MiG-29K của mình.

Hệ thống điện tử hàng không

Hệ thống điều khiển hỏa lực của MiG-29K và MiG-29KUB dự kiến gồm:

  • Hệ thống radar đa chế độ trên máy bay;
  • Hệ thống trinh sát quang điện tử (tìm và bám mục tiêu bằng tia hồng ngoại);
  • Hệ thống chỉ định mục tiêu trên mũ phi công;
  • Thiết bị chỉ định mục tiêu và điều khiển hỏa lực cho các đầu dò tên lửa dùng radar thụ động.

MiG-29K có sẵn một hệ thống trinh sát quang điện tử IRST mới tích hợp với hệ thống laser và quang học, và nó sẽ là một thách thức lớn ngay cả với máy bay địch.

MiG-29K được trang bị hai động cơ Klimov RD-33MK "Morskaya Osa" (tiếng Nga: Морская Оса: "Sea Wasp"), đây là mẫu mới nhất trong dòng động cơ RD-33. Được phát triển vào năm 2001, nó dự định sẽ dùng để trang bị cho các máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu MiG-29K và MiG-29KUB, tuy nhiên nó cũng được trang bị cho MiG-35. Các động cơ mới có đặc tính công suất cao hơn 7% so với các mẫu cũ do sử dụng các vật liệu hiện đại trong chế tạo động cơ. Nó vẫn giữ được độ dài và đường kính tối đa trong khi tăng lực đẩy khi đốt tăng lực thêm 9.000 kgf và trọng lượng tịnh là 1,145 kg. Nó cũng chứa các hệ thống làm giảm bức xạ khí thải của động cơ, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của các khí tài quang học và hồng ngoại của địch. Tuổi thọ phục vụ tăng lên tới 4.000 giờ. Những thay đổi mới đảm bảo các máy bay tiêm kích cất cánh trên tàu sân bay mà không cần trợ giúp, duy trì hiệu suất trong môi trường khí hậu nóng và dĩ nhiên, tăng hiệu quả chiến đấu trong phiên bản mới nhất của dòng máy bay tiêm kích MiG-29.

Các phương pháp làm giảm tín hiệu phản xạ radar

Sống sót là một tính năng quan trọng trong thiết kế MiG-29K. Nó không dựa trên công nghệ khó bị phát hiện, như các hệ thống ẩn (stealth). MiG-29K có thiết kế kết hợp của khả năng "tàng hình" (stealth), nâng cao khả năng tác chiến điện tử, giảm tổn thương do vũ khí, sử dụng vũ khí không chiến ngoài tầm nhìn, và các chiến thuật mới mà tích lũy và tổng hợp các phương pháp trên sẽ làm tăng độ an toàn của máy bay và phi công. MiG-29K bắt đầu đưa vào trang bị tại Ấn Độ vào tháng 2 năm 2010.

Nga

thumb|left|MiG-29KR của Hải quân Nga được trưng bày tại [[Căn cứ Không quân Kubinka]] Hải quân Nga có một phi đội gồm 21 máy bay chiến đấu Su-33 có thời hạn phục vụ dự kiến kéo dài đến năm 2015. Khoảng 10 đến 12 chiếc sẽ nhận được bản nâng cấp bao gồm thiết bị Gefest SVP-24 hỗ trợ ném bom, mang lại cho chúng khả năng tấn công mặt đất hạn chế, nhưng Hải quân Nga cần nhiều máy bay hơn. Việc mở dây chuyền sản xuất Su-33 với quy mô nhỏ sẽ ít hiệu quả hơn so với việc thực hiện theo đơn đặt hàng MiG-29K của Hải quân Ấn Độ. Ấn Độ đã chi trả 730 triệu USD để Nga phát triển và chuyển giao 16 chiếc, trong khi 24 chiếc cho Hải quân Nga sẽ tiêu tốn khoảng 1 tỷ USD. Việc chuyển giao MiG-29K cho Hải quân Nga bắt đầu vào năm 2010. Hải quân Nga sau đó đàm phán với Mikoyan để đặt hàng thêm máy bay MiG-29K/MiG-29KUB vào tháng 8 năm 2011. Một đơn đặt hàng gồm 20 máy bay chiến đấu MiG-29KR và 4 máy bay huấn luyện hoạt động MiG-29KUBR dành cho tàu Đô đốc Kuznetsov, thay thế cho Su-33, đã được chính thức công bố vào tháng 2 năm 2012. Tuy nhiên vào năm 2015, Thiếu tướng Igor Kozhin, Tư lệnh Lực lượng Phòng không và Không lực Hải quân, tuyên bố rằng một trung đoàn máy bay tiêm kích thứ hai sẽ được thành lập để tăng cường lực lượng hiện tại với ý định rằng những chiếc MiG-29K sẽ được sử dụng bởi đơn vị mới này, cùng với những chiếc Su-33 hiện có được tân trang lại để sử dụng thêm.

Vào tháng 10 năm 2016, 4 chiếc MiG-29KR/MiG-29KUBR đã thành lập nên một phần của nhóm không quân trên tàu Đô đốc Kuznetsov khi con tàu được triển khai cùng với nhóm tác chiến tàu sân bay của mình đến Địa Trung Hải trong khuôn khổ chiến dịch của Nga tại Syria. Ngày 13 tháng 11 năm 2016, một chiếc MiG-29KUBR đang hoạt động ở Địa Trung Hải đã bị rơi trên đường trở về tàu Đô đốc Kuznetsov.

Biến thể

thumb|MiG-29K tại [[MAKS (triển lãm hàng không)|MAKS năm 2007]] ;MiG-29K :Phiên bản chiến đấu chính một chỗ ngồi của Ấn Độ.

Các nhà khai thác

Quốc gia sử dụng Mikoyan MiG-29K tính đến năm 2010 ;

  • Hải quân Nga-Không quân Hải quân Nga: đặt mua 24 chiếc vào năm 2010. ;
  • Hải quân Ấn Độ - Binh chủng Không quân Hải quân: đặt mua 45 chiếc MiG-29K/KUB (tháng 3 năm 2010), giao hàng dần tới năm 2015. Đang có kế hoạch đặt mua 30 chiếc khác. **Phi đội 303 INAS "Black Panthers" (Báo đen)

Các thông số kỹ thuật (MiG-29K – Izdeliye 9.41)

thumb|Bản vẽ chi tiết kỹ thuật 3 chiều của MiG-29K thumb|Cơ chế gấp cánh của MiG-29K thumb|Ống tiếp nhiên liệu của MiG-29K :''Nguồn: Rosoboronexport, Mikoyan, deagel.com, airforce-technology.com, Business World

Đặc tính chung

  • Tổ lái: 1
  • Chiều dài: 17.3 m (57.76 ft)
  • Sải cánh: 11.99 m (39.34 ft)
  • Chiều cao: 4.40 m (14.44 ft)
  • Diện tích cánh: 43 m² (462 ft²)
  • Trọng lượng rỗng:
  • Trọng lượng cất cánh: 18,550 kg (40,900 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 24,500 kg (54,000 lb)
  • Động cơ: 2× Klimov RD-33MK, 9,000 kgf (88.2 kN, 19,800 lbf) mỗi chiếc

Đặc tính bay

  • Vận tốc cực đại: Mach 2+ (2,200 km/h, 1,370 mph); ở độ cao thấp 1,400 km/h, 870 mph
  • Bán kính chiến đấu: 850 km (528 mi)
  • Vận tốc hành trình:
  • Tầm bay tối đa: 3000 km (1,860 mi) với 3 thùng dầu phụ
  • Trần bay: 17,500 m (57,400 ft)
  • Vận tốc lên cao: ban đầu 330 m/s, trung bình 109 m/s 0–6000 m (65,000 ft/min)
  • Lực nâng của cánh: 442 kg/m² (90.5 lb/ft²)
  • Lực đẩy/trọng lượng: 0.97

Vũ khí

Tải trọng vũ khí tối đa là khoảng 6,5 tấn, còn tải trọng chiến đấu thì thấp hơn, đạt mức 5,5 tấn vũ khí (tải trọng chiến đấu là lượng vũ khí tối đa máy bay có thể mang theo mà vẫn có thể tác chiến hiệu quả, còn tải trọng tối đa là lượng vũ khí lớn nhất mà máy bay có thể mang theo khi cất cánh (nhưng không thể tác chiến hiệu quả do tầm bay bị rút xuống quá ngắn), vì vậy cùng 1 máy bay thì tải trọng tối đa luôn lớn hơn khá nhiều so với tải trọng tác chiến).

  • 1 x pháo 30 mm GSh-30-1 với 100 viên đạn
  • 8 giá treo dưới cánh cộng thêm một giá treo dưới thân mang tới 5,500 kg (12,125 lb) vũ khí bao gồm

;Tên lửa không đối không (AAM): 8 tên lửa không đối không gồm:

  • AA-11 "Archer" - AAM tầm ngắn dẫn đường hồng ngoại, 30 km,
  • AA-10 "Alamo" - AAM tầm trung dẫn đường radar bán chủ động/hồng ngoại, 130/120 km,
  • AA-12 "Adder" - AAM tầm trung dẫn đường radar chủ động, 100 km,

;Tên lửa không đối đất (AGM):

  • Kh-25ML - dẫn đường laser bán chủ động với đầu nổ kép có thể khoan phá bê tông dày 1 m (39 in), 10 km,
  • Kh-29T/TE - dẫn đường vô tuyến, 12–40 km,
  • Kh-35U - dẫn đường radar chủ động, tên lửa tầm xa, 130 km,

;Tên lửa chống radar:

  • Kh-25MP - biến thể chống radar của tên lửa Kh-25, 40 km,
  • Kh-31P - tên lửa chống radar đầu dò thụ động, 110 km,

;Tên lửa chống hạm:

  • Kh-31A - tên lửa chống tàu tầm trung, 70 km
  • Kh-35 - tên lửa chống tàu tầm xa dẫn đường bằng radar chủ động, 130 km,

;Bom:

  • FAB-500
  • FAB-1000, (1,500 kg / 3,300 lb),
  • KAB-500KR - bom thả và quên dẫn đường bằng vô tuyến quang điện tử

;Các vũ khí, khí tài khác gắn ngoài:

  • Pháo sáng/Mồi bẫy nhiệt hoặc thiết bị cảnh báo MAWS
  • Thiết bị đối kháng điện tử (ECM) hoặc
  • Thiết bị ngắm mục tiêu ''hoặc'
  • Thùng dầu phụ bỏ được ''hoặc'
  • Hệ thống tiếp nhiên liệu trên không UPAZ (ARS).

;Hệ thống điện tử hàng không

  • Radar Zhuk -ME
  • Hệ thống khí tài trinh sát quang điện tử (IRST).
  • Thiết bị cảnh báo radar chiếu xạ SPO-15 Beryoza
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikoyan MiG-29K** (; tên ký hiệu của NATO: **Fulcrum-D**) là một loại máy bay tiêm kích đa năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, được Nga phát triển và chế tạo.
**Mikoyan MiG-29** (; tên ký hiệu của NATO: **Fulcrum**) là một loại máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư do Liên Xô thiết kế chế tạo cho vai trò chiếm ưu thế
**Mikoyan MiG-35** (tiếng Nga: Микоян МиГ-35) (tên ký hiệu của NATO **Fulcrum F**) là một kiểu máy bay mới nhất thuộc dòng Mikoyan MiG-29. Trang bị động cơ phản lực RD-33 với những miệng ống
**Mikoyan MiG-29M** (, tên ký hiệu của NATO **"Fulcrum-F"**) là một mẫu máy bay phát triển hoàn thiện từ công nghệ của MiG-29M/M2 và MiG-29K/KUB. Trước đây được biết đến với tên gọi là **MiG-33**,
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
Máy bay được phân loại là **máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư** là những chiếc được đưa vào sử dụng trong khoảng thời gian từ 1980-2010, thể hiện những khái niệm
**Vympel R-73** (tên ký hiệu của NATO: **AA-11 Archer**) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn được Vympel NPO phát triển. Nó được thiết kế để sử dụng trong các cuộc không
**RD-33** là loại động cơ turbine phản lực cánh quạt có khả năng đốt sau được Liên Xô phát triển theo kế hoạch OKB-117 do S. P. Izotov (giờ là OAO Klimov) dẫn đầu. Việc
**Không quân Liên bang Nga** (tiếng Nga: Военно-воздушные cилы России, chuyển tự: _Voyenno-vozdushnye sily Rossii_) là lực lượng Phòng không - Không quân cấp quân chủng của Nga. Hải quân Nga cũng có lực lượng