✨McLaren

McLaren

McLaren, được sáng lập vào năm 1963 bởi Bruce McLaren (1937-1970), là một đội đua nước Anh, vốn nổi tiếng nhất ở lĩnh vực đua xe Công thức 1 nhưng cũng tham gia tại Indianapolis 500-Mile Race, Canadian-American Challenge Cup và 24 Hours of Le Mans. Tên đầy đủ của đội hiện nay là Team McLaren Mercedes nhưng kể từ tháng 1 năm 2007 sẽ được đổi thành Vodafone McLaren Mercedes theo một bản hợp đồng tài trợ lớn từ hãng truyền thông Vodafone được thông báo từ tháng 12 năm 2005. Hiện nay người điều hành đội đua là Ron Dennis, dưới sự lãnh đạo của McLaren Racing, một thành viên của McLaren Group

Năm 1990 McLaren Cars được thành lập để phục vụ cho việc sản xuất xe hơi thông dụng dựa trên chuyên môn sẵn có từ các cuộc đua xe.

McLaren là một trong những đội đua thành công nhất ở Công thức 1, có nhiều chiến thắng hơn bất kỳ đội đua nào khác trừ Ferrari, đồng thời cũng sở hữu rất nhiều chức vô địch cá nhân và đồng đội tại F1. McLaren tổng cộng có 11 chức vô địch cá nhân và 9 chức đồng đội kể từ năm 1966.

Những năm 1960

Bruce McLaren Motor Racing được sáng lập bởi 1 người New Zealand Bruce McLaren vào năm 1963. Chặng đua đầu tiên của đội diễn ra tại Monaco năm 1966. Tuy nhiên những cuộc đua này tồn tại quá ngắn vì lỗi rò rỉ dầu ở chiếc xe.

Năm 1966 và 1967, đội đua chỉ đua với 1 chiếc xe với Bruce là tay lái chính. Ngoài nghĩa vụ đối với các giải Grand Prix, Bruce còn tham gia Can Am Championship bên cạnh người đồng đội Denny Hulme. Bộ đôi này đã giành chiến thắng 5 trong tổng số 6 cuộc đua.

Năm 1968 đội đua bao gồm 2 tay đua trong đó có cả Denny Hulme, ông hoàng F1 lúc bấy giờ và cũng là người đua tại giải Can Am cho McLaren. Bruce đã giành chức vô địch non-championship Race tại Brands Hatch. Sau đó tại Bỉ đã chứng kiến chức vô địch đầu tiên cho đội.

3 podiums tiếp theo năm 1969 được dành cho Bruce. Trong khi đó tại giải Can Am, ông và đồng đội của mình chia nhau các chiến thắng tại đó.

Những năm 1970

Cả thập kỷ 70 của thế kỷ 20 chứng kiến 1 kết quả tồi tệ đáng thất vọng của McLaren với cái chết của ông chủ Bruce McLaren khi đang thử xe ở giải Can Am tại Goodwood. Mặc dù cái chết này để lại một khoảng trống lớn trong đội nhưng những thành viên khác đã tập hợp, đoàn kết lại và giành được một số thành quả khá quan trọng ở nhiều thể thức khác nhau bao gồm CanAm, Công thức 1, Công thức 2, Indy Car và F5000.

McLaren quyết định từ bỏ giải CanAm vào cuối năm 1972, chỉ tập trung vào Công thức 1 và IndyCar. Quyết định này của họ tỏ ra là 1 quyết định đúng đắn khi năm 1974 họ vô địch tuyệt đối với chức vô địch đồng đội và cá nhân (Emerson Fittipaldi) và chức vô địch Indianapolis 500 đầu tiên với tay đua Jonny Rutherford. Chức vô địch cá nhân năm 1976 đến với McLaren đồng nghĩa với việc họ là đội đua đầu tiên giành cả trọn bộ chức quán quân trong một mùa giải.

McLaren cuối cùng cũng rời bỏ giải IndyCar sau khi có kết quả tệ hại vào cuối năm 1979.

Những năm 1980

Đội đua McLaren hiện nay là đội đua liên kết giữa McLaren và đội đua Công thức 2 thuộc sở hữu cá nhân của Ron Dennis, được gọi là Project 4, vào năm 1981. Kể từ đó, tất cả các thiết kế xe của McLaren đều được đặt tên là MP4-xx. Trong trường hợp này P4 chính là Project 4. Nhưng điều này không có liên quan gì tới thiết kế chassis.

Trên thực tế MP4 tượng trưng cho Malboro Project 4. Do vậy, tên đầy đủ phải là 'McLaren MP4-xx'. Cái tên này phản ánh không chỉ tên của đội mà còn của hãng tài trợ chính cho đội. Cái tên này đã tồn tại với McLaren nhiều năm nay, dù cho sau này nhà tài trợ chính của McLaren là West-đối thủ chính của Malboro. Như vậy, ngày nay Malboro là hãng tài trợ cho Ferrari nhưng vẫn để lại vết tích trong đội McLaren. Cái tên đó được ngăn cách bởi dấu gạch chéo "/" từ trước năm 1996 và đã được thay bằng dấu gạch ngang "-" từ năm 1997 tới nay.

Thời kỳ phồn thịnh nhất trong lịch sử McLaren tới dưới sự điều hành của Ron Dennis. John Barnard đã thiết kế ra chiếc MP4/1 mang tính chất lịch sử khi dùng hoàn toàn nguyên liệu sợi cácbon, nguyên liệu đã chứng tỏ vị thế vượt trội khi đưa vào động cơ Porsche Turbo. Các tay lái cho McLaren thời kỳ đó lần lượt là Niki Lauda, Alain Prost, Keke Rosberg và Stefan Johansson. McLaren-Porsche giành ngôi quán quân năm 1984 (cùng chiếc vương miện cá nhân của Niki Lauda) và năm 1985 (với chức vô địch đầu tiên cho Prost). Năm 1986 ngôi quán quân đã không thuộc về McLaren mặc dù Alain Prost vô địch lần thứ 2 liên tiếp.

Sau khi để tuột mất 2 chức vô địch liên tiếp năm 1986 và 1987, McLaren đã thuyết phục được Honda chấm dứt hợp đồng với Williams để đến với mình. Với cái tên mới McLaren-Honda đã giành được 1 kết quả đáng kinh ngạc với 15 trên 16 cuộc đua. Năm đó, Ayrton Senna có được danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp với đội đua nước Anh. Năm tiếp theo, với động cơ 3.5L mới được thiết kế bởi Honda, McLaren một lần nữa giành cú đúp với ngôi quán quân thuộc về Alain Prost. Prost đã chiếm được ngôi vô địch sau một tai nạn gây xôn xao dư luận với Ayrton Senna tại Nhật Bản GP. Đây là đỉnh điểm của một mối thù truyền kiếp giữa 2 tay đua tài năng bậc nhất Ayrton Senna và Alain Prost.

Alain Prost rời McLaren để tới Ferrari vào năm 1990. Tuy vậy, McLaren vẫn tiếp tục thống trị giải đua xe Công thức 1 suốt 2 năm sau đó, với chức vô địch của Senna năm 1990 và 1991 và 2 chức vô địch đồng đội. Thành công này có được nhờ đóng góp không nhỏ của Gerhard Berger, người thế chỗ Prost.

Sự suy sụp của McLaren giữa những năm 1990

Từ năm 1992 trở đi, McLaren sa vào những thất bại. Sau ưu thế vượt trội của động cơ Renault khi cung cấp cho Williams, Honda quyết định từ bỏ F1. McLaren chuyển sang dùng động cơ Ford. Trong khi điều này khá là thuận lợi dưới tay lái của Senna thì đó quả là một mùa giải thảm khốc cho người đồng đội Michael Andretti khi chỉ giành được một vài điểm. Gần cuối mùa giải, anh được thế chỗ bởi Mika Haikkinen, một tay đua trẻ người Phần Lan. Năm 1994, Senna chuyển tới Williams, và Martin Brundle cùng với Haikkinen là 2 tay đua của McLaren với động cơ Peugeot. Thành tích của đội khi đó không hề gây được ấn tượng. Chính vì vậy Peugeot đã phải rút khỏi F1 để nhường chỗ cho động cơ mới của Mercedes-Benz. Thế nhưng mùa giải 1995 thậm chí còn tệ hại hơn 1994, với MP4/10 quá nặng và chậm chạp. Nhà cựu vô địch Nigel Mansell chuyển tới McLaren vào năm 1995 nhưng cũng sớm giã từ sự nghiệp chỉ sau 2 chặng đua vì lý do không phù hợp với chiếc xe.

1996 đánh dấu sự kết thúc 1 kỉ nguyên của McLaren khi phân tách khỏi nhà tài trợ lâu năm Malboro. Kể từ đó, chiếc xe đỏ trắng rất nổi tiếng bị thay thế bằng màu xám của nhà tài trợ mới: West.

Cuối những năm 90

Mặc dù đạt kết quả tồi tệ năm 1996, cuối cùng động cơ Mercedes đã trở nên tốt hơn. Trong khi Williams thống trị F1 trong suốt những năm 1996, 1997 McLaren đã tiến những bước chậm chạp nhưng vững chắc với động cơ Mercedes và 2 tay đua Mika Haikkinen và David Coulthard. Năm 1997, Coulthard có 1 khởi đầu khá thuận lợi bằng việc chiến thắng Úc GP. Tuy vậy, chiếc xe vẫn không đủ ổn định để chiến thắng 1 chặng đua, kể cả khi Coulthard chiến thắng thêm chặng Ý. Trong suốt 1997, McLaren đã "đi đêm" với designer tài năng của Williams, Adrian Newey, và đưa được ông về đội trong sự tức giận của Williams. Chặng cuối cùng của mùa giải, European Grand Prix, Mika Haikkinen đã được nếm trải hương vị chiến thắng đã mong mỏi từ lâu.

Sự thật là McLaren đã có Adrian Newey trên đội ngũ kỹ thuật, cùng với việc giã từ F1 của Renault vào cuối năm 1997 đồng nghĩa với việc McLaren đã trở lại, sẵn sàng chiến đấu. Năm 1998, McLaren đã một lần nữa chiếm lấy thế thượng phong khi chiến thắng 9 chặng. Haikkinen trở thành nhà vô địch, giành được 100 điểm cùng với chức vô địch đồng đội của McLaren. Năm 1999, Haikkien bảo vệ thành công ngôi vô địch, nhưng McLaren lại để tuột mất danh hiệu đó vào tay Ferrari.

2000-2004

Biểu trưng của đội đua McLaren Mercedes 2000 là năm của những cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa McLaren và Ferrari nhưng rốt cuộc thì Ferrari đã đánh bại đội đua nước Anh, giành ngôi vô địch.

Kể từ năm 2000, McLaren đã chiến đấu quyết liệt nhằm đòi lại vị trí thống trị tại F1. Năm 2001, McLaren có một bước tiến đáng kể khi giành vị trí thứ 2 chung cuộc nhưng đáng tiếc là cả hai trong số họ không ai đủ khả năng để đánh bại gã khổng lồ đỏ Ferrari với tay đua chủ lực Michael Schumacher. Năm 2002, Haikkinen có 1 kỳ nghỉ phép, một phần dẫn tới sự giải nghệ của nhà cựu vô địch, mở đường cho tay đua trẻ, người đồng hương đầy triển vọng Kimi Raikkonen để thế chỗ anh. McLaren chỉ giành được thêm 4 chiến thắng trong 3 năm 2002, 2003, 2004. Trong đó năm 2002 chỉ có 1 chiến thắng duy nhất tại Monaco của Coulthard.

Mùa giải 2003 khởi đầu đầy hứa hẹn, với 2 chiến thắng đầu mùa chia đều cho cả hai tay đua David Coulthard và Kimi Raikkonen. Tuy nhiên, các đối thủ khác nhanh chóng bắt kịp đội đua nước Anh khi McLaren lại đang phải vật lộn với những sửa chữa các lỗi của chiếc MP4-18. Điều này buộc đội đua phải sử dụng động cơ cũ MP4-17D, một cản trở rất lớn trong môn F1 hiện đại. Tuy vậy, Raikkonen vẫn kiên trì bám đuổi Michael Schumacher trên con đường giành chức vô địch cho tới chặng cuối cùng. Chung cuộc, Kimi Raikkonen và McLaren về nhì sau Michael Schumacher và Ferrari đúng 2 điểm.

McLaren bắt đầu mùa giải 2004 với MP4-19 mà giám đốc kỹ thuật Adrian Newey giới thiệu là "phiên bản nâng cấp của MP4-18". Nhưng tới giữa mùa giải, đội đua lại cần tới 1 chiếc xe mới. Chiếc MP4-19B thực sự là một chiếc xe mới với hệ thống khí động học được chế tạo hoàn toàn mới. David Coulthard giành được vị trí thứ 3 tại kì phân hạng tại Pháp đã đem tới một niềm hy vọng mới cho đội đua. Cuối năm Kimi Raikkonen giành được chiến thắng vang dội trước thế lực Michael Schumacher tại Bỉ năm đó.

2005

Tay đua người Colombia từng vô địch CART Juan Pablo Montoya được chọn làm người thay thế David Coulthard, là đồng đội mới của Kimi Raikkonen. Mùa giải này đối với Montoya không phải là một mùa giải có những bước khởi đầu thuận lợi khi anh phải nhường chỗ cho 2 test-drivers là Pedro De La Rosa và Alexander Wurz vì bị dính vào một chấn thương. Đầu mùa giải, McLaren không thật sự nổi bật, để mất nhiều điểm vào tay Renault. Tuy nhiên tại San Marino sự thể đã khác khi mà chiếc McLaren là chiếc xe nhanh nhất tại kì đua phân hạng. Đáng buồn thay khi Raikkonen để vuột mất chiến thắng trong tầm tay vào tay Fernando Alonso vì một lỗi của chiếc xe.

Kimi Raikkonen trên chiếc xe mới của McLaren Mercedes, [[27 tháng 4 năm 2006, Silverstone, Anh]]

Mặc dù ưu thế về tốc độ trội hơn hẳn của McLaren so với đối thủ Renault, vấn đề đáng quan tâm nhất lúc bấy giờ của họ chính là sự tin cậy của chiếc xe. Đó là một cái gai khó dỡ bỏ của đội khi mà người trả giá cho những lỗi đó là những chiến thắng của Kimi Raikkonen. Nhờ những sai lầm đó, Renault chính là kẻ được hưởng lợi nhất trong việc gia tăng khoảng cách với đội thứ 2 trong bảng tổng sắp. Chính những bất ổn định này dẫn tới việc Kimi Raikkonen để mất chức vô địch một cách đáng tiếc và ngay cả ngôi quán quân đồng đội dành cho McLaren cũng bị Renault nẫng mất.

Ngày 19 tháng 12 năm 2005, McLaren tuyên bố ký được 1 hợp đồng béo bở với nhà đương kim vô địch Fernando Alonso vào năm 2007. Theo đó rộ lên nhưng suy đoán về khả năng Kimi Raikkonen sẽ rời McLaren để đến với gã khổng lồ đỏ Ferrari nhưng nhiều người cho rằng anh sẽ vẫn ở lại với McLaren, sát cánh cùng Alonso.

Các nhà tài trợ

nhỏ|Black Label, phiên bản F1 dành cho đội McLaren Mercedes McLaren có một trong những hợp đồng tài trợ lâu năm nhất với Phillip Morris qua hãng Malboro. Mối quan hệ được ký kết năm 1974 và kéo dài từ năm 1981 tới năm 1996, khi Malboro chuyển sang tài trợ cho Ferrari.

Imperial Tobacco (với thương hiệu West) là nhà tài trợ chính cho McLaren từ năm 1997 cho tới ngày 29 tháng 7 năm 2005. Sau đó, McLaren đã phải tìm một nhà tài trợ khác vì quy định cấm quảng cáo thuốc lá của Liên minh châu Âu.

Ngày 22 tháng 2 năm 2005, Diageo plc và McLaren công bố rằng Diageo trở thành nhà tài trợ chính cho đội với thương hiệu Johnnie Walker, thương hiệu rượu Whisky nổi tiếng nhất thế giới. Tiêu đề "Johnnie Walker" và biểu tượng "Striding Man" được sơn trên sườn xe kể từ giải Hungary. Tuy nhiên, tên đầy đủ của đội không có Johnnie Walker mà chỉ gồm Team McLaren Mercedes cho tới hết năm 2006. Kể từ mùa 2007, đội đua này sẽ đổi thành Vodafone McLaren Mercedes.

Ngày 8 tháng 3 năm 2006, đội đua đã thông báo rằng Emirates Airline đã tham gia tài trợ đội với hợp đồng 1 năm, trị giá khoảng 20-$25 triệu đô la Mỹ.

McLaren qua những con số

Tổng số chặng đua: 974 Chiến thắng: 189 Chức vô địch cá nhân: 12 Chức vô địch dành cho đội đua: 9 (1974, 1984, 1985, 1988, 1989, 1990, 1991, 1998, [https://w.wiki/CpAk 2024]) Vị trí xuất phát đầu tiên: 164 Bục Podiums: 524 Chiến thắng 1-2: 40 Chạy một vòng nhanh nhất: 172

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**McLaren**, được sáng lập vào năm 1963 bởi Bruce McLaren (1937-1970), là một đội đua nước Anh, vốn nổi tiếng nhất ở lĩnh vực đua xe Công thức 1 nhưng cũng tham gia tại Indianapolis
**Báo cáo McLaren** là tên một báo cáo độc lập của giáo sư Richard McLaren được đưa ra trong hai phần về các cáo buộc và bằng chứng doping do nhà nước Nga bảo trợ.
**Paulinho McLaren** (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1963) là một cầu thủ bóng đá người Brasil. ## Sự nghiệp câu lạc bộ Paulinho McLaren đã từng chơi cho Bellmare Hiratsuka. ## Thống kê câu
**Xã McLaren** () là một xã thuộc quận Conway, tiểu bang Arkansas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 225 người.
**Oscar Jack Piastri** (sinh ngày 6 tháng 4 năm 2001) là một tay đua ô tô chuyên nghiệp người Úc. Anh đã giành chức vô địch Giải đua xe Công thức 3 năm 2020 và
Mô Hình Siêu Xe Lắp Ráp Điều Khiển Từ Xa Cyberpunk Rambo Tỷ Lệ 1:14 Cực Đẹp 💢 Thông tin sản phẩm Mô hình xe Cyberpunk Rambo Tỷ Lệ 1:14 🔹 Tỉ lệ: 1:14 (nhỏ
**Sex Pistols** là một ban nhạc punk rock của Anh thành lập tại Luân Đôn vào năm 1975. Họ là người khởi xướng phong trào punk tại Vương quốc Anh và truyền cảm hứng cho
**Giải đua xe Công thức 1 2024** là mùa giải Công thức 1 thứ 75 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) điều hành. Đây là mùa giải kỷ lục về mặt số lượng
**Jenson Alexander Lyons Button**, MBE (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1980 tại Frome, Somerset, Anh) là một tay đua người Anh. Từ năm 2000 đến 2017, anh thi đấu trong Công thức 1 và
**Sir** **Lewis Carl Davidson Hamilton** (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1985) là tay đua Công thức 1 người Anh, hiện đang thi đấu cho đội đua Scuderia Ferrari. Hamilton là một trong những tay
**Giải đua xe Công thức 1 2025** là một giải đua xe mô tô đang được tổ chức dành cho các xe đua Công thức 1 với tư cách ​​là mùa giải Công thức 1
**Lando Norris** (sinh ngày 13 tháng 11 năm 1999) là một tay đua người Anh-Bỉ hiện đang đua cho McLaren tại Công thức 1 cho Anh. ## Đầu đời Lando Norris sinh ngày 13 tháng
**Kimi Räikkönen** (tên đầy đủ **Kimi Matias Räikkönen,** phát âm IPA: ; sinh ngày 17 tháng 10 năm 1979 tại Espoo, Phần Lan), biệt danh **Ice Man**, là tay đua Công thức 1 người Phần
**Fernando Alonso Díaz** (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1981 tại Oviedo, Tây Ban Nha) là tay đua Công thức 1 người Tây Ban Nha. Alonso đã từng hai lần đoạt chức vô địch F1
**Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2025** (tên chính thức là **Formula 1 Lenovo Japanese Grand Prix 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 6 tháng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Qatar Airways Qatar Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 1 tháng
nhỏ|300x300px|[[Sebastian Vettel của Red Bull Racing là nhà vô địch của giải đua xe Công thức 1 năm 2012]] nhỏ|297x297px|[[Fernando Alonso của Ferrari kết thúc ở vị trí á quân.]] nhỏ|200x200px|[[Kimi Räikkönen của Lotus kết
**Carlos Sainz Vázquez de Castro** (; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1994), còn được gọi là **Carlos Sainz Jr,** là một tay đua Công thức 1. Anh là con trai của Carlos Sainz Sr.,
**Ayrton Senna Da Silva** (21 tháng 3 năm 1960 – 1 tháng 5 năm 1994) là tay đua Công thức 1 người Brasil. Senna được coi là một huyền thoại của môn thể thao tốc
**David Marshall Coulthard** MBE ((; sinh ngày 27 tháng 3 năm 1971) là một cựu tay đua người Anh đến từ Scotland. Ông đã thi đấu trong 15 mùa giải Công thức 1 liên tiếp
**_Need for Speed: Hot Pursuit_**, là một trò chơi điện tử năm 2010 thuộc thể loại đua xe trong dòng trò chơi _Need for Speed_, được phát triển bởi nhà phát triển lập trình game
**Mercedes-Benz**, một thương hiệu của tập đoàn Mercedes-Benz, tham gia Công thức 1 với tư cách là chủ sở hữu đội đua và nhà sản xuất động cơ trong nhiều giai đoạn kể từ năm
**Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Gran Premio de la Ciudad de México 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức
**Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc 2025** (tên chính thức là **Formula 1 Heineken Chinese Grand Prix 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 23 tháng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha 2025** (tên chính thức là **Formula 1 Aramco Gran Premio de España 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày
**Giải đua xe Công thức 1 2005** là mùa giải thứ 56 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này diễn ra trong vòng 19 cuộc
**Force India Formula One Team Limited**, thường được gọi là **Force India** và sau này là **Sahara Force India**, là một đội đua Công thức 1 cũ có trụ sở tại Silverstone, Vương quốc Anh
**Nick Lars Heidfeld** (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977 tại Mönchengladbach) là một cựu tay đua người Đức. Anh đã từng thi đấu trong công thức 1 từ năm 2000 đến năm 2011. Anh
**Michael Schumacher** (biệt danh là **Schumi**; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1969, tại Hürth Hermülheim, Đức) là một cựu tay đua Công thức 1 người Đức. Với thành tích từng 7 lần vô địch
**Giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia năm 2011** là chặng đua thứ hai của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2011. Giải được tổ chức ngày 10 tháng 4 năm
**Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Pirelli United States Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 dự kiến được tổ chức vào
**Giải đua ô tô Công thức 1 Miami 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Crypto.com Miami Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 5 tháng 5
**Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Singapore Airways Singapore Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 22 tháng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia-Romagna 2024** (tên chính thức là **Formula 1 MSC Cruises Gran Premio del Made in Italy e dell'Emilia-Romagna 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ
**Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Rolex Australian Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 24 tháng 3
**Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2025** (tên chính thức là **Formula 1 Louis Vuitton Australian Grand Prix 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 16 tháng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2025** (tên chính thức là **Formula 1 STC Saudi Arabian Grand Prix 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào
thế=A picture of Lewis Hamilton driving a Mercedes F1 W06 Hybrid formula one car during the 2015 Canadian Grand Prix.|nhỏ|[[Mercedes-Benz in Formula One|Mercedes giành chức vô địch hạng mục đội đua lần thứ hai liên
**Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco 2023** (tên chính thức là **_Formula 1 Grand Prix de Monaco 2023_**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 28 tháng 5
**Kevin Jan Magnussen** (sinh ngày 5 tháng 10 năm 1992) là một tay đua người Đan Mạch hiện đang đua cho đội đua Haas ở Công thức 1. Anh là con trai của nhà 4
**Giải đua xe Công thức 1 2023** là mùa giải Công thức 1 thứ 74 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này được tổ chức tại 22 chặng đua
**Nelson Piquet Souto Maior** (, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1952) là một tay đua và doanh nhân người Brasil. Ông được coi là một trong những tay đua Công thức 1 vĩ đại
**Mick Schumacher** (; sinh ngày 22 tháng 3 năm 1999) là một tay đua người Đức, hiện là tay đua dự bị cho Mercedes và McLaren. Anh đã thi đấu trong Công thức 1 cho
**Chặng đua GP Ý 2021** hay **Chặng đua GP Italia 2021** (tên chính thức **Formula 1 Heineken Gran Premio d'Italia 2021**) là chặng đua thứ 14 của Giải đua xe Công thức 1 2021. Chặng
**Honda Racing F1** là một đội Công thức 1 cũ của tập đoàn ô tô Honda. Đội đã tham gia Công thức 1 từ năm 1964 đến năm 1968 và từ năm 2006 đến năm
**Đội đua Công thức 1 BMW Sauber** là một đội đua Công thức 1 cũ của Đức và là đội đua đại diện nhà sản xuất ô tô BMW. Nó được đại diện trong hạng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Úc năm 2008** là chặng đua đầu tiên của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2008. Giải được tổ chức từ ngày 14 đến ngày
**Liên hoan phim Cannes lần thứ 59** diễn ra từ ngày 17 tới 28 tháng 5 năm 2006. Có 20 bộ phim từ 11 quốc gia tham gia tranh giải Cành cọ vàng. Trưởng ban
**Giải đua xe Công thức 1 năm 2007** là giải Công thức 1 vô địch thế giới lần thứ 58. Giải diễn ra từ 18 tháng 3 đến 21 tháng 10 gồm 17 chặng đua