✨Marici
Mārīcī (tiếng Phạn: मारीची; tiếng Trung: 摩利支天; tiếng Việt: Ma Lợi Chi Thiên; tiếng Nhật: Marishiten) là một vị thiên chúng Phật giáo (deva), cũng như một Bồ Tát liên quan đến ánh sáng và Mặt Trời. Theo hầu hết các tài liệu lịch sử, Mārīcī được coi là một nữ thần, nhưng ở một số khu vực, bà được miêu tả là một nam thần được tôn thờ trong tầng lớp chiến binh ở Đông Á. Mārīcī thường được mô tả với nhiều cánh tay, cưỡi một con lợn, hoặc trên một cỗ xe lửa rực lửa kéo bởi bảy con ngựa hoặc bảy con lợn. Bà có thể có một cái đầu hoặc từ ba đến sáu cái đầu, với một cái đầu hình dạng như lợn. Ở một số khu vực Đông Á, trong những tạo hình dữ dội nhất của bà, bà có thể đeo một chuỗi vòng cổ làm bằng sọ. Trong một số hình ảnh khác, bà ngồi trên một hoa sen.
Những hình tượng sớm nhất của Mārīcī được tìm thấy là ở Ấn Độ và Tây Tạng, đặc biệt là gần thành phố cảng cổ và khu vực Phật giáo Salihundam ở Andhra Pradesh, nơi Mārīcī được miêu tả cưỡi trên một cỗ xe được kéo bởi bảy con ngựa, theo cách tương tự như Surya (thần Mặt Trời cùng với các nữ thần Usha và Chaya).
Bà cũng được cho là có nguồn gốc từ nữ thần Vedic Uṣas, nữ thần của bình minh trong văn hóa Vedic. Bà cũng chia sẻ một số điểm tương đồng với Surya, thần Mặt Trời. Trong các hình ảnh chiến binh hoặc võ sĩ của bà, bà có sự tương đồng với Durga, vì cả hai đều xuất hiện với nhiều cánh tay mang theo các vũ khí khác nhau trong khi cưỡi một con vật hoặc cỗ xe.
Danh sách này không đầy đủ, và còn nhiều hình ảnh khác của Mārīcī tồn tại trong thế giới Phật giáo.
Trong Phật giáo Tây Tạng
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Marici_by_Choying_Dorje.jpg|nhỏ|Mārīcī, vẽ vào 1600–1699, [[Ü-Tsang. bởi Choying Dorje]] Ba văn bản được bảo tồn trong Kriya Tantra của Kangyur Tây Tạng, trong đó Mārīcī (Tây Tạng: Ozer Chenma) là chủ đề chính:
- Chú ngữ Mārīcī (Skt. ārya mārīcī nāma dhāraṇī, Wyl.
'phags ma 'od zer can zhes bya ba'i gzungs, D 564) - Những hành trì tốt cao từ Tantra của Māyāmārīcī (Skt. Māyāmārīcījāta tantrād uddhitaṃ kalparājā, Wyl. sgyu ma'i 'od zer can 'byung ba'i rgyud las phyung ba'i rtog pa'i rgyal po', D 565)
- Bảy trăm hành trì của Mārīcī từ các Tantra (Skt. ārya mārīcī maṇḍalavidhi mārīcījāta dvādaśasahasra uddhitaṃ kalpa hṛdaya saptaśata, Wyl.
'phags ma 'od zer can gyi dkyil 'khor gyi cho ga 'od zer can 'byung ba'i rgyud stong phrag bcu gnyis pa las phyung ba'i rtog pa'i snying po bdun brgya pa, D 566)
Một số văn bản khác có thể được tìm thấy trong các chú giải của Dergé Tengyur.
Ozer Chenma cũng đôi khi được coi là một hóa thân của Tara. Trong phái Nyingma, bà là Tara thứ 21.
Một thần chú quan trọng của bà là: :Tiếng Phạn: ''Oṃ mārīcyai svāhā' :Tiếng Tây Tạng: om ma ri tsyai soha (ཨོཾ་མཱ་རི་ཙྱཻ་སྭཱ་ཧཱ།)
Đại cứu cánh
Ozer Chenma đặc biệt quan trọng trong truyền thống Đại cứu cánh của phái Nyingma. Sự quan trọng của bà liên quan đến biểu tượng của Mặt Trời và các tia sáng của nó trong tư tưởng Đại cứu cánh, cũng như việc sử dụng Mặt Trời như một sự trợ giúp trong thực hành tögal của Đại cứu cánh. Kinh Tantra Vidya Tự Sinh tuyên bố: "Để chứng minh nguồn gốc của các tia sáng, có một tantra được gọi là Marici Tantra." Trong truyền thống này, âm tiết chính của bà là MUM, và thần chú của bà là "OM MARI ZEYE MUM SVAHA".
Trong Phật giáo Đông Á
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:The_goddess_Marici_at_an_Esoteric_Buddhist_temple_in_Hong_Kong.jpg|nhỏ|258x258px|Mārīcī bốn đầu tám tay cưỡi trên một con lợn – Chùa Hoằng Pháp, [[Hồng Kông|Hong Kong]] Ở Trung Quốc, Mārīcī được thờ phụng như một vị thần cả trong Phật giáo lẫn Đạo giáo. Bà được tôn sùng cao trong Phật giáo Mật tông. Bà thường được miêu tả với ba con mắt trên mỗi đầu và bốn cánh tay ở mỗi bên cơ thể. Hai tay của bà chắp lại, và sáu tay còn lại cầm các vật như mặt trời, mặt trăng, chuông, ấn vàng, cung, và giáo. Bà có thể đứng hoặc ngồi trên một hoa sen hoặc lợn, hoặc trên một hoa sen đặt trên bảy con lợn. Lễ hội của bà được cử hành vào ngày 9 tháng 9 âm lịch. Là một trong Nhị thập tứ chư thiên, bà thường được thờ phụng cùng với các thần khác trong Đại Hùng Bảo Điện của nhiều chùa Phật giáo Trung Quốc, ở hai bên của ban thờ chính.
Mārīcī đôi khi được coi là hiện thân của Bồ tát Chuẩn Đề, với những hình ảnh biểu tượng tương tự. Bà cũng được thờ phụng như là nữ thần ánh sáng và là người bảo vệ các quốc gia, bảo vệ họ khỏi cơn thịnh nộ của chiến tranh.
Trong Đạo giáo, Đấu Mẫu vẫn là một vị thần phổ biến và thường được gọi là Thiên Hậu (天后). Bà được thờ phụng rộng rãi như là nữ thần của chòm Bắc Đẩu. Bà cũng được tôn thờ như là mẹ của Cửu Hoàng (九皇), được đại diện bởi chín ngôi sao trong chòm sao Bắc Đẩu. Huyền thoại kể rằng một hoàng hậu đã tắm trong một cái ao vào một ngày xuân. Khi bà bước vào bồn tắm, bà đột nhiên cảm thấy "dao động", và chín nụ hoa sen nổi lên từ mặt ao. Mỗi nụ hoa sen này mở ra để lộ một ngôi sao, trở thành chòm sao Beidou. Bà cũng được xác định là đồng nhất với Chuẩn Đề và với Mahēśvarī, vợ của Maheśvara, và do đó bà cũng mang danh hiệu Mātrikā (佛母, Phật Mẫu), mẹ của Vô vàn Đức Phật.
Ngày nay, bà được thờ phụng trong các đền thờ Đạo giáo như đền Bạch Vân và cung Đấu Mẫu, những nơi có ảnh hưởng cả từ Đạo giáo lẫn Phật giáo.
Đấu Mẫu được ghi chép trong ba văn bản chính yếu của Đạo tạng, từ đó các câu chuyện trên đã được rút ra. Ba văn bản này được biên soạn trong thời kỳ Tống-Nguyên, theo phần giới thiệu của từng mục trong Đạo tạng chính thống (được đánh số theo Schipper, 1975). Chúng bao gồm:
- Dz 45: Ngọc Thanh vô thượng linh bảo tự nhiên Bắc Đấu bổn sinh kinh (玉清無上靈寶自然北斗本生經)
- Dz 621: Thái Thượng huyền linh Đấu Mỗ đại thánh nguyên quân bổn mệnh diên sinh tâm kinh (太上玄靈斗姆大聖元君本命延生心經)
- Dz 1452: Tiên thiên Đấu Mỗ tần cáo huyền khoa (先天斗姆秦告玄科)
Nhật Bản
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Marishiten01_Shinsan_Butsuz%C5%8D_Zukan.jpg|trái|nhỏ|200x200px|Tranh Nhật Bản vẽ Mārīcī, tay cầm cây quạt có chữ Vạn 卐 Mārīcī, một vị thần quan trọng trong các tông phái Chân ngôn tông và Thiên Thai tông, đã được các Samurai tiếp nhận vào thế kỷ thứ 8 như là vị thần bảo vệ và giám hộ.
Dù việc thờ phụng Mārīcī có từ trước khi Thiền tông xuất hiện, nó dường như sử dụng một dạng thiền định tương tự. Người ta nghĩ rằng trong trạng thái thiền, các chiến binh sẽ mất đi sự quan tâm đến các vấn đề chiến thắng và thất bại hoặc sinh tử, giúp họ trở thành những chiến binh tốt hơn.
Việc thờ phụng Mārīcī được kỳ vọng sẽ đạt được sự vị tha và lòng từ bi thông qua việc làm chủ bản thân. Một số trường phái võ thuật cũng thờ phụng Mārīcī như là một vị thần bảo hộ của truyền thừa của họ. Ví dụ, trong lời thề máu (Keppan) của phái Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū, các đệ tử được yêu cầu phải quy phục Futsunushi-no-Mikoto và chịu trừng phạt của Mārīcī nếu họ vi phạm các quy tắc của phái.
Các Samurai thường cầu khẩn Mārīcī vào lúc bình minh để đạt được chiến thắng.
Vào cuối thời kỳ Edo, Mārīcī cũng được thờ phụng như là nữ thần của sự giàu có và thịnh vượng bởi tầng lớp thương nhân, cùng với Daikokuten (大黒天) và Benzaiten (弁財天) như một phần của bộ ba "Tam thiên" (三天 Santen). Sự thờ phụng bà đạt đỉnh điểm trong thời kỳ Edo nhưng đã suy giảm sau đó do sự tan rã của hệ thống phong kiến, sự bãi bỏ tầng lớp Samurai, và sự gia tăng phổ biến của Benzaiten, người đã thay thế Mārīcī trong các nghi thức thờ phụng hiện đại.