✨Maria Callas
Maria Callas (tiếng Hy Lạp: Μαρία Κάλλας, 2 tháng 12 năm 1923 - 16 tháng 9 năm 1977) là giọng nữ cao người Mỹ gốc Hy Lạp và là một trong những nữ ca sĩ opera danh tiếng nhất trong thập niên 1950. Bà sở hữu kĩ thuật hát giọng đẹp (bel canto) ấn tượng và khả năng diễn xuất tuyệt vời. Là một giọng ca đa dạng, bà không chỉ thành công ở những opera seria cổ điển mà còn ở những vở ca kịch sử dụng giọng đẹp, của Donizetti, Bellini, Rossini và cả những tác phẩm của Verdi và Puccini, và một số vở nhạc kịch của Wagner (trong những năm đầu sự nghiệp). Những vai diễn thành công nhất của bà là Lucia (Lucia di Lammermoor), Floria Tosca (Tosca), Violetta (La Traviata), Norma (Norma), Medea (Médée). Bà được gọi với danh hiệu La Divina (Nữ thần).
Maria Callas có một tuổi thơ không hạnh phúc bên người mẹ khắc nghiệt, bà được học âm nhạc ở Hy Lạp và thành danh ở Italia. Sự thành công nhanh chóng của Callas cũng kéo theo sự tập trung của dư luận lên đời tư của bà, về tính khí nóng nảy bất thường, về sự tranh chấp của bà với Renata Tebaldi và chuyện tình của nữ danh ca với Aristotle Onassis. Nhưng sau những thành công đã qua, bà nhanh chóng rơi vào cô đơn và lạc lõng, khi mà giọng hát, sắc đẹp và tình yêu của người phụ nữ đã mất. Cuộc đời đầy kịch tính và những bi kịch cuộc sống đôi khi đã làm lu mờ đi hình ảnh của bà. Tuy nhiên, vẫn còn đó những thành công nghệ thuật của bà, mà Leonard Bernstein gọi là "Kinh thánh của nghệ thuật opera" , và sự ảnh hưởng của bà, mà tờ Opera News năm 2006 đã viết: "Gần 30 năm sau khi mất đi, cô vẫn là sự khẳng định rõ nét nhất của một diva, cũng như một nghệ sĩ và vẫn là một trong những danh ca được ưa thích của âm nhạc cổ điển" .
Tuổi thơ
Ngôi nhà ở [[Athens mà Callas sống từ năm 1931 đến năm 1945.]] Maria Callas có tên khai sinh là Sophia Cecelia Kalos , sinh tại Bệnh viên Flower tại 1249 Fifth Avenue ở Manhattan vào ngày 2 tháng 9 năm 1923 , với cha mẹ người gốc Hy Lạp: George Kalogeropoulos và Evangelia "Litsa" (hay "Litza") Dimitriadou. Bà có tên thánh là Maria Anna Sofia Cecilia Kalogeropoulou, sở hữu cách của họ Kalogeropoulos (Tiếng Hy Lạp:Μαρία Άννα Σοφία Καικιλία Καλογεροπούλου). Kalogeropoulos đầu tiên được rút ngắn là "Kalos" và sau đó là "Callas".
Gia đình
Gia đình Maria Callas ở Mỹ George Kalogeropoulos và Elmina Evangelia "Litsa" là một đôi vợ chồng trái ngược nhau: George là một người đàn ông hoà nhã và không ham muốn, không có sở thích nghệ thuật, trong khi vợ ông là một người sôi nổi, nhiều tham vọng, và có ước mơ thành công trong nghệ thuật . Cuộc hôn nhân đi đến khủng hoảng và vào năm 1937, Evangelia quyết định trở lại Athen cùng với hai cô con gái của bà . Mặt khác, người viết tiểu sử Pestalis-Diomidis quả quyết rằng sự đối xử đầy căm ghét của Evangelia với George trước mặt lũ trẻ đã gây nên sự oán hận và ghét bỏ về phía Callas . Sau chuỗi bức thư tức giận và tố cáo của Evangelia tới cha và chồng Callas, bà đã hoàn toàn chấm dứt mối quan hệ với mẹ mình . Tuy nhiên, khi phỏng vấn với Pierre Desgraupes trong chương trình tiếng Pháp L'Invitee Du Dimanche, Maria không cho rằng sự phát triển giọng ngực của bà là nhờ Trivella, mà là nhờ cô giáo tiếp theo của bà, giọng nữ cao màu sắc Tây Ban Nha nổi tiếng, Elvira de Hidalgo .
xxxxnhỏ|Maria Callas với cô giáo Elvira de Hidalgo (người ngồi đầu tiên từ bên phải sang)]] Callas học với Trivella trong hai năm trước khi mẹ bà cho đi buổi thử giọng ở Nhạc viện Athen với de Hidalgo. Callas tham dự với bài "Ocean, Thou Mighty Monster". De Hidalgo nhớ lại đã nghe "những thác âm thanh ngông cuồng và dữ dội, không thể chế ngự được nhưng lại đầy kịch tính và cảm xúc" . Callas nói rằng bà "đã đến trường vào 10 giờ buổi sáng và rời khỏi với sinh viên cuối cùng..., nghiến ngấu âm nhạc" hơn 10 tiếng mỗi ngày. Khi cô giáo hỏi bà tại sao lại làm thế, câu trả lời của Maria chỉ là "với những sinh viên kém tài năng nhất, anh ta có thể chỉ cho em những điều mà cô, người tài năng nhất, không thể làm được" .
Khởi đầu sự nghiệp tại Hy Lạp
Sau những năm học hành, Callas bắt đầu xuất hiện với vai trò phụ tại Nhà hát Quốc gia Hy Lạp. De Hidalgo đã giúp đỡ Callas kiếm một khoản tiền nhỏ, nó đã giúp cô và gia đình vượt qua những năm khó khăn trong chiến tranh .
Callas đóng vai diễn chuyên nghiệp đầu tiên vào tháng 2 năm 1942, trong một vai nhỏ Beatrice trong vở của Franz von Suppé Boccaccio
Giai đoạn chính trong sự nghiệp
Trở lại Mỹ
Sau khi trở về Hoa Kỳ và sum họp với người cha vào tháng 9 năm 1945, Maria Kalogeropoulos chính thức đổi tên thành Maria Callas. Bà tham dự nhiều buổi thử giọng . Sau đó, ông tiến cử Callas cho ông bầu Giovanni Zenatello. Trong buổi thử giọng của bà, Zenatello trở nên phấn khích tới mức nhảy cẫng lên và tham gia với Callas trong lần song ca ở màn 4 . Cô được mời hát vai Brünnhilde trong Die Walküre tại Teatro la Fenice, khi Margherita Carosio, người sắp sửa hát vai Elvira trong I Puritani tại cùng nhà hát, bị ốm. Không thể tìm được ai khác thay thế cho Carosio, Serafin đành mời Callas hát Elvira trong sáu ngày Franco Zeffirelli nhớ lại, "Điều mà cô ấy làm ở Venice thật phi thường. Bạn cần hiểu opera thì mới nhận biết được tầm cỡ thành công của cô. Điều đó giống như nếu ai đó bảo Birgit Nilsson, người nổi danh với chất giọng siêu kịch tính, lại đi thay thế cho một Beverly Sills nữ cao màu sắc vậy" . Lần trình diễn đầu tiên trên Nhà hát Metropolitan, nơi mà bà đã từ chối 9 năm trước, vào tháng 11 năm 1956 và tiếp tục với vai Norma. Tuy nhiên trước đó lại có một bài viết trên tạp chí Time, góp nhặt tất cả những câu chuyện về Callas như sự tức giận và tranh chấp của bà với Tebaldi, về mối quan hệ của Callas và mẹ mình .
Tháng 11 năm 1958, Callas tham gia buổi hòa nhạc để giới thiệu khánh thành Nhà hát thành phố Dallas, và giúp thành lập công ty với những người bạn của bà từ Lyric Opera của Chicago, Lawrence Kelly and Maestro Nicola Rescigno . Cô ấy củng cố thế đứng của công ty khi vào năm 1958, cô đã thể hiện "một màn trình diễn xuất chúng với vai Violetta trong La Traviata của Verdi và cũng năm đó, với vai diễn Medea, đem đến một sự sáng tạo có giá trị như Euripides" . Với vai Violetta của Callas, soprano người Đức Elisabeth Schwarzkopf đã quyết định sẽ không đóng Violetta nữa vì bà nói: "Còn lấy đâu ra cảm xúc để diễn nữa, khi cô ấy đã thể hiện Violetta quá hoàn hảo rồi" . Nhiều tin đồn lan truyền về phương pháp giảm cân của Callas: có người nói Maria đã nuốt một con sán, trong khi một công ty sản xuất mỳ lại khăng khăng rằng bà giảm cân nhờ ăn món "mỳ sinh lý" của họ, khiến cho Callas thưa kiện công ty đó ra tòa .
Hai người gặp nhau đầu tiên vào năm 1947 tại Verona Festival, sau đó là khi cùng diễn vai Aida (Verdi) tại La Scala chỉ cách nhau mấy ngày vào năm 1950. Mâu thuẫn nảy sinh vào năm 1951, khi cả hai cùng hát trong cùng một buổi hòa nhạc và Callas tức giận khi Tebaldi lúc đầu nhất trí không hát "bis" (hát lại một aria theo yêu cầu khán giả) nhưng trên thực tế đã hát thêm những 2 aria. Vào một buổi tiệc sau đó, Callas lại công khai chỉ trích cách diễn xuất của Tebaldi trong vai Violetta (La Traviata), nói rằng đó là "một điều tồi tệ" và khuyên Tebaldi nên từ bỏ vai đó đi.
Sự tranh chấp đã gây ra một cơn sốt vào giữa những năm 1950, không chỉ với hai người phụ nữ, mà còn lôi kéo cả những người hâm mộ họ đứng về phía hai phe khác nhau. Callas luôn mỉa mai Tebaldi bằng những lời lẽ cay nghiệt nhất, thậm chí một lần Callas đã phát biểu rằng: "Renata Tebaldi chỉ là cô ca sĩ không có cột sống" (vì Tebaldi bị mắc bệnh viêm tủy) . Tuy nhiên theo những người dự buổi phỏng vấn xác nhận như đinh đóng cột rằng Callas chỉ nói "sâm panh với cô nhắc", và có người ngồi ở dưới đã hét lên: "Không, với Coca Cola" (Cả hội trường cười), nhưng tạp chí Time lại quy cho đó là lời nói của Callas .
Ngày 16 tháng 9 năm 1968, Callas đã đến xem buổi biểu diễn của Tebaldi trong vai Adriana Lecouvreur (Francesco Cilea) ở nhà hát Metropolitan và ôm hôn, chúc mừng Telbadi
Theo người viết tiểu sử Nicholas Gage, Callas và Onassis đã có một người con trai, tuy nhiên đứa bé đã chết ngay sau khi chào đời vào ngày 30 tháng 3 năm 1960 . Trong cuốn sách hồi tưởng về người vợ cũ, Meneghini viết rằng Callas không thể có con . Cũng như vậy, nhiều nguồn khác bác bỏ lời nói của Gage, họ thấy rằng giấy khai sinh mà Gage sử dụng để chứng minh cho "đứa bé bí ẩn" được cấp vào năm 1998, hơn hai mươi năm sau Callas qua đời . Vài nguồn khác cho rằng Callas đã ít nhất một lần phá thai trong thời gian sống với Onassis . Quan hệ yêu đương của bà với Onassis kết thúc vào năm 1968, khi Onassis bỏ rơi Callas để theo đuổi Jacqueline Kennedy, phu nhân của cố tống thống Mỹ Kenedy.
Tuy nhiên, cô Kiki, người thư ký bí mật của gia đình Onassis, viết trong hồi ký của cô rằng Aristotle dù cưới Jackie, nhưng ông thường xuyên gặp gỡ Maria ở Paris, nơi họ tiếp tục mối quan hệ bí mật . Vụ scandal trở nên nổi tiếng với tên "Rome Walkout". Callas đã kiện Rome Opera House, nhưng vụ kiện kéo dài mười ba năm sau và Rome Opera bị tất cả mọi người cho là có lỗi khi từ chối việc sử dụng ca sĩ thay thế .
Callas (vai Tosca) và [[Tito Gobbi (vai Scarpia) trong vở Tosca nổi tiếng năm 1964 với đạo diễn Franco Zeffirelli]] Mỗi quan hệ của bà với La Scala đã trở nên căng thẳng sau vụ Edinburgh, và điều này dã chia cắt sự ràng buộc của bà với "ngôi nhà nghệ thuật" Scala. Cuối năm 1958, Callas và Rudolph Bing đã thảo luận về công việc mới ở Met. Bà được mời diễn trong La Traviata và Macbeth, hai vở opera khác biệt mà đòi hỏi những ca sĩ khác nhau. Callas và Met không thể đi đến thỏa thuận, và trước khi vở Medée diễn ra ở Dallas, Bing điện tín đến cho Callas để chấm dứt thỏa thuận. Ngay hôm sau, những đề mục đại loại như "Bing tống cổ Callas" xuất hiện nhan nhản trên khắp các mặt báo khi khẳng định rằng Devetzi đã conned Maria out of control of half of her estate, trong khi hứa sẽ thành lập một Quỹ Maria Callas để cung cấp học bổng cho những ca sĩ trẻ. Sau hàng trăm ngàn đô la biến mất, Devetzi cuối cùng đã thành lập quỹ này.
Ngôi nhà Maria Callas đã sống những ngày cuối cùng và [[qua đời ở Paris, Pháp]]Trong một cuộc phỏng vấn năm 1978, khi được hỏi " Có đáng không với Maria Callas? Bà ấy cô độc, không hạnh phúc và thường khó chịu", nhà phê bình âm nhạc và bạn của bà, [Https://en.wikipedia.org/wiki/John Ardoin|Jonh Ardoin] phản hồi:
Đó là một câu hỏi khó. Đôi khi có những người nào đó được ban phước, và nguyền rủa với một món quà phi thường, món quá có khi quá lớn với loài người. Callas là một trong những người đó. Cứ như thể những điều ước của cô ấy, cuộc đời cô ấy, hạnh phúc chính cô ấy chính là mọi phục tùng cho món quà khó tin cô ấy được nhận, món quà đã đến và dạy chúng ta những thứ về âm nhạc mà ta biết rất rõ, nhưng chỉ ra cho ta cái mới mà ta chưa từng nghĩ tới, những khả năng mới. Tôi nghĩ đó là tại sao các ca sĩ ngưỡng mộ cô ấy, những nhạc trưởng ngưỡng mộ cô ấy. Tôi cũng biết đó là tại sao tôi ngưỡng mộ cô ấy. Và cô ấy đã phải trả một cái giá quá đắt và khó khăn cho sự nghiệp này. Tôi không nghĩ cô ấy luôn hiểu những gì cô ấy làm và tại sao làm nó. Cô ấy luôn có một hiệu ứng rất lớn lên khán giả và mọi người. Nhưng cô ấy không luôn sống hạnh phúc và khoan thai cùng thứ ấy. Tôi từng nói với cô ấy:" Đó là điều rất đáng ghen tị khi là Maria Callas." Và cô ấy nói: " Không, đó là một điều tồi tệ khi là Maria Callas, vì đó là một câu hỏi của sự cố gắng hiểu những điều bạn không bao giờ hiểu". Cô ấy không thể giải thích những gì cô ấy làm. Nó hoàn toàn tạo nên bởi bản năng. Có gì đó chôn sâu trong cô ấy.
Giọng hát
Giọng hát của Callas đến nay vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi . Trong cuốn "The Callas Debate", nhà phê bình người Ý Rodolfo Celletti nói rằng: "âm sắc của giọng Callas, thực sự rất xấu... Nhưng tôi tin rằng sự lôi cuốn của cô lại là bởi chính điều này. Tại sao ư? Bởi thay vì sự son phấn, nhung lụa và giàu có, chất giọng cô lại có được những âm sắc đặc biệt mà khó có thể quên" .
Nhạc trưởng Carlo Maria Giulini đã miêu tả sự hấp dẫn của giọng hát Callas:
Kiểu giọng
Chất giọng của Callas rất khó để có thể xếp vào hệ thống phân loại giọng hiện đại hay cổ điển nào, khi mà trong sự nghiệp, những tiết mục của bà bao gồm cả những vai kịch tính nặng nhất cũng như những vai mà chỉ được dành cho những chất giọng coloratura soprano cao nhất, sáng nhất và linh hoạt nhất. Về sự đa dạng đó, nhạc trưởng Serafin nói: "Người phụ nữ này có thể hát tất cả những gì viết ra dành cho giọng nữ . Mặt khác, John Ardoin lại cho rằng Callas là sự tái hiện của một giọng soprano sfogato hay "nữ cao không giới hạn" ở thế kỉ 19, giống như Maria Malibran và Giuditta Pasta, hay cho rất nhiều vở opera giọng đẹp (bel canto) đã được viết ra. Ông khẳng định rằng giống như Pasta và Malibran, Callas là một giọng nữ trung tự nhiên mà âm vực được mở rộng nhờ sự luyện tập và ý chí, kết quả đã đem lại một chất giọng thiếu đồng nhất về màu sắc và đều đặn trong âm giai là những thứ sáng giá trong ca hát. Đã có những phân vùng không thể điều khiển trong giọng hát của họ. Ví dụ, với nhiều người từng nghe Pasta, bình luận rằng dường như những note cao nhất của bà được tạo ra bởi thuật nói tiếng bụng, một sự cáo buộc mà về sau đã chống lại Callas .
Sự kết hợp giữa âm vực, âm lượng và khả năng linh hoạt của giọng đã tạo nên sự kinh ngạc cho những đồng nghiệp của Callas. Một trong số những thành viên đội hợp xướng tại đêm biểu diễn đầu tiên của bà ở La Scala với vở I Vespri Siciliani nhớ lại: "Chúa tôi. Nghe cô ấy hát trên sân khấu như là giọng nữ trầm sâu nhất Cloe Elmo. Và trước kết thúc, cô ấy lại thực hiện một note Mi giáng cao. Và nó lại mạnh mẽ gấp đôi so với Toti Dal Monte vậy. Còn với Renata Tebaldi thì "điều phi thường nhất là cô ấy có thể hát soprano coloratura với một giọng lớn. Thật sự điều đó rất đặc biệt. Tuyệt đối phi thường!" . Giulietta Simionato, người bạn thân và bạn diễn của Callas, phát biểu là chính bà đã bảo Callas rằng bà thấy những vai diễn nặng đã dẫn tới cơ hoành không tốt và khó khăn trong việc điều khiển những quãng cao .
Louise Caselotti, người làm việc với Callas năm 1946 và 1947 trước khi bà tới Italia, cảm thấy không phải từ những vai diễn nặng, mà chính những vai nhẹ đã làm hỏng giọng Callas . Bà cũng ghi danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood cho thành tựu của bà trong lĩnh vực ghi âm. Ngôi sao của Callas nằm tại vị trí 1680 phố Vine.
Có những nghệ sĩ đã tưởng nhớ Callas trong âm nhạc: Ban nhạc R.E.M. để cập đến Callas ở bài hát "E-Bow the Letter" trong album New Adventures in Hi-Fi. Năm 2007, Celine Dion tưởng nhớ Callas qua bài hát "La Diva", với lời của Denise Bombardier. Bài hát nằm trong album D'elles, trong đó có sự xuất hiện của giọng hát Callas với aria Si, mi chiamano Mimi (opera La Boheme) ở phần đầu và phần cuối của bài; phần cuối còn có đoạn pha trộn giữa giọng của Celine và Callas. Thậm chí Celine Dion ước mơ là sẽ được đóng vai Maria Callas trong một bộ phim nào đó và nhận giải Oscar cho vai diễn đó . Ban nhạc Enigma đặt tên cho một bài hát của họ với phần sample có giọng Callas, trong album năm 1991 MCMXC a.D., mang tên "Callas Went Away". Album năm 2007 của Buffalo Tom tên Three Easy Pieces có bài hát "C.C. and Callas", phản ánh sự suy nghĩ của người viết ca khúc Chris Colbourn về Callas. Son Lux, hay Ryan Lott, đưa giọng Callas vào một bài hát trong album đầu tay của anh, At War With Walls And Mazes. Singer-songwriter Rufus Wainwright đề cập đến Callas ở bài Beauty Mark, trong album Rufus Wainwright. Rufus là một fan của Opera, đặc biệt say mê những tác phẩm của Callas. Trên một bài phỏng vấn với tờ báo Tây Ban Nha El País, anh bày tỏ rằng một trong những điều nên làm trong cuộc đời là lắng nghe Maria Callas vào lúc bình minh.
Sau khi Callas mất, đã có rất nhiều cuộc triển lãm và buổi đấu giá các kỉ vật của bà. Ngày 12 tháng 12 năm 2007, một buổi đấu giá Sotheby ở Milan (Italia) có sự tham gia của chính phủ Hy Lạp và nhiều nhà sưu tập tư nhân. Hiện nay, những kỉ vật của bà nằm rải rác nhiều nơi, phần lớn thuộc bộ sưu tập của con cháu người chồng quá cố Giovanni Battista Meneghini, một số nằm trong tay các nhà sưu tập cá nhân và số ít thuộc Bảo tàng Hy Lạp .
Vai diễn
Discography
DVD
- La Cállas Toujours (Paris, Palais Garnier, 1958) (EMI Classics)
- The Eternal Maria Callas (EMI Classics)
- Maria Callas at Covent Garden, 1962-1964 (EMI Classics)
- Maria Callas in Concert (Hamburg 1959-1962) (EMI Classics)
- The Callas Conversations Conversation (EMI Classics)
- Maria Callas, Life and Art (EMI Classics)
- Maria Callas, Une vie d'Art et d'Amour (EMI Classics)
- Passion Callas (EMI Classics)
- Maria Callas, Living and diying for art and love (TDK)
- Maria Callas, La Divina (Arthaus)
- Médée, phim của Pier Paolo Pasolini (Carlotta)