✨Mang

Mang

nhỏ|phải|Một con [[cá chép không có nắp mang do khuyết tật bẩm sinh, có thể nhìn thấy rõ mang màu đỏ ở hai bên má.]] Mang là một cơ quan hô hấp tồn tại trong nhiều động vật sống dưới nước, có chức năng trích lọc ôxi trong nước cung cấp cho cơ thể và thải bỏ cacbonic rả khỏi cơ thể sinh vật.

Đại cương

Một số loài động vật sống trên cạn như ốc mượn hồn và cua đất cũng hô hấp bằng mang, nhưng mang của chúng đã tiến hóa để có thể duy trì sự ẩm ướt trong điều kiện sống trên đất liền. Cấu trúc vi mô của mang cho thấy cơ quan này có diện tích bề mặt tiếp xúc với môi trường ngoài cực kì lớn. Một số động vật kích thước nhỏ hoặc ít hoạt động có thể hấp thu ôxi trực tiếp qua bề mặt cơ thể, nhưng các động vật lớn hơn, phức tạp hơn, hoạt động nhiều hơn thì có thể cần sự hiện diện của mang.

Mang thường bao hàm một hay nhiều phiến mô phân nhánh, có nhiều nếp gấp giúp tăng đáng kể diện tích bề mặt tiếp xúc với nước. Diện tích bề mặt lớn này đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với con vật nếu chúng ta xét đến hàm lượng ôxi hòa tan cực kì nhỏ chứa trong nước, nhất là so với hàm lượng ôxi trong không khí. Ví dụ, một mét khối không khí chứa 250 gam ôxi trong điều kiện nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn, tương đương nồng độ 210 cm³/lít, trong khi đó nồng độ ôxi hòa tan trong nước ngọt là 8 cm³/lít. Ngoài ra tốc độ khuếch tán của ôxi trong nước chậm hơn 10.000 lần so với không khí và độ nhớt, tỉ trọng của nước nhiều gấp 100 lần so với không khí. Như vậy, việc dùng một cơ quan dạng túi giống như phổi để lấy ôxi tỏ ra kém hiệu quả hơn rất nhiềy so với việc dùng hệ thống mang với cơ cấu bơm giúp nước chảy một chiều từ đầu này qua đầu kia của mang. Tỉ trọng lớn của nước giúp giữ cho các phiến mang "lơ lửng" trong nước và không đổ sập đè chồng lên nhau, điều xảy ra khi con vật bị lôi lên khỏi mặt nước.

Ngoại trừ trường hợp trong một số côn trùng, mang bao hàm các tơ mang và phiến mang mang nhiều mạch máu và mạch thể dịch, và quá trình trao đổi khí diễn ra thông qua lớp vách mỏng của các mạch này. Sau đó mạch máu sẽ vận chuyển ôxi về các cơ quan của cơ thể, còn cacbônic thấm qua thành vách mỏng đi ra môi trường bẹn ngoài. Mang và các cơ quan tương tự được tìm thấy ở trên nhiều vị trí khác nhau của cơ thể và ở nhiều nhóm động vật ở nước khác nhau, bao hàm các loài thân mềm, giáp xác, côn trùng, cá, và lưỡng cư.

Loài có xương sống

nhỏ|phải|Mang cá nước ngọt, phóng to 400 lần. Mang của các loài động vật có xương sống hình thành và phát triển trên vách của hầu, bao hàm một dãy khe mang mở thông ra ngoài. Phần lớn các loài động vật này tận dụng dòng chảy đối lưu để tăng tối đa tốc độ khuếch tán không khí thông qua mang, trong đó nước và dòng máu chảy ngược chiều nhau. Mang bao hàm các tơ mang dạng lược mang các phiến mang giúp tăng diện tích bề mặt tiếp xúc.

Khi một con cá thở, nó hút một lượng lớn nước vào miệng theo từng đợt đều nhau, sau đó đẩy nước ra hai bên thành họng và tống ra ngoài theo đường mang. Mang cá có thể là tiền thân của các cơ quan như amiđan, tuyến ức và vòi Eustach, cũng như nhiều cấu trúc khác phát triển từ túi hầu.

Cá sụn

Cá mập và cá đuối thường có 5 cặp khe mang mở trực tiếp ra môi trường nước bên ngoài, một số cá mập nguyên thủy có đến 6 hay 7 khe mang. Các khe mang kế tiếp nhau được ngăn cách bởi cung mang dạng sụn, từ cung mang này trổ ra các vách ngăn hình phiến, chúng được chống đỡ bằng những tấm sụn gọi là tia mang. Các phiến mang nằm trên cả hai mặt của vách cung mang. Cung mang cũng có thể là nơi nương tựa của lược mang, một cơ quan chuyên dùng để "lọc" các hạt thức ăn li ti trong nước.

Cá sụn có một lỗ thở nằm ngay phía lưng của khe mang thứ nhất, bao hàm một mang phụ giả nhìn giống như mang thật, nhưng chỉ nhận máu chứa sẵn nhiều ôxi chảy từ mang thật tới.

Phần lớn các loài cá mập không có khả năng tự "bơm" nước vào mang mà hô hấp bằng cách "tông" vào nước, cụ thể hơn khi cá bơi về phía trước thì dòng nước sẽ di chuyển tương đối về phía sau so với cá, và vì vậy, nếu lấy cá làm hệ quy chiếu thì dòng nước sẽ di chuyển tương đối từ miệng vào mang cá để cá hô hấp. Cá bơi càng nhanh thì dòng nước "chảy" vào mang càng nhanh. Đối với các loài cá sụn bơi chậm như cá đuối, khi tốc độ bơi không đủ nhanh để hô hấp kiểu "tông" vào nước, lỗ thở của chúng có độ rộng lớn hơn và các loài cá nay có khả năng chủ động hút nước để bơm vào mang.

Các loài cá sụn thuộc bộ Chimaeriformes không có cả lỗ thở lẫn khe mang thứ năm, các khe mang còn lại được che bởi một nắp mang bằng sụn, phát triển từ vách ngăn của cung mang nằm phía trước khe mang thứ nhất.

Cá mút đá và cá bà già không có dạng khe mang giống như cá mập, cá đuối, mà mang của chúng nằm trong các túi hình cầu có lỗ tròn thông qua môi trường ngoài. Giống như khe mang của các loài cá cấp cao hơn, mỗi túi mang bao hàm hai mang. Trong một số trường hợp, các lỗ thông hòa nhập vào nhau và hình thành nên một cấu trúc giống như nắp mang. Cá mút đá có 7 cặp túi mang trong khi cá bà già có thể từ 6-14 cặp tùy theo loài. Ở cá bà già, túi mang nối thông với hầu, trong khi ở cá mút đá trưởng thành, hệ thống hô hấp bao hàm một đường ống thở nằm ở dưới hầu, ngăn cách dòng thức ăn và dòng nước dùng trong hô hấp trộn lẫn với nhau bằng một van, van này sẽ đóng lại ở đầu trước của ống khi cá hô hấp.

Cá xương

trái|Mang của một con [[cá ngừ.]] Đối với các loài cá xương, mang cá nằm ờ một khoang sau đầu, che phủ bởi một nắp mang bằng xương. Phần lớn các loài cá xương có 5 cặp mang, mặc dù một vài loài có ít hơn do sự tiêu giảm trong quá trình tiến hóa. Nắp mang của cá có vai trò quan trông trong việc điều chỉnh áp suất nước trong hầu và nhờ đó giúp cho cá có thể chủ động hút và bơm nước vào mang chứ không phải di chuyển liên tục để hô hấp như nhiều loài cá sụn. Cá xương cũng có những van nằm trong miệng để ngăn nước thất thoátvra ngoài.

Cung mang của cá xương không có vách ngăn và mang cá gắn trực tiếp lên xương cung mang, được chống đỡ bằng các tia mang đơn lẻ. Một số loài cá xương còn giữ lại các lược mang. Phần lớn các loài cá xương - ngoại trừ một số loài nguyên thủy - không có lỗ thở, nhưng mang phụ giả vẫn còn tồn tại và nằm ở gốc nắp mang. Tuy nhiên cơ quan này đã bị tiêu giảm đáng kể và chỉ còn tồn tại dưới dạng một dúm tế bào có hình thù không rõ ràng.

Các loài thuộc Phân thứ lớp Cá xương thật (Teleostei) sống ở biển cũng sử dụng mang để bài tiết chất điện giải. Diện tích bề mặt quá lớn của mang khiến cá gặp nhiều khó khăn trong việc điều tiết nồng độ thẩm thấu của thể dịch vốn thấp hơn nhiều so với nồng độ thẩm thấu của nước biển và khiến cá bị đe dọa mất nước do thẩm thấu. Đối với cá nước ngọt, nồng độ của thể dịch lại cao hơn và vì vậy cá có thể hấp thu nước một cách tự nhiên từ môi trường ngoài qua mang.

Loài khác

nhỏ|phải|[[Mang ngoài của nòng nọc thuộc loài sa giông núi cao nằm ở hai bên đầu.]]

Nòng nọc của các loài lưỡng cư có 2-5 khe mang bao hàm những cơ quan hô hấp tựa như mang, nhưng chưa phải là mang thật sự. Thông thường lỗ thở và nắp mang không tồn tại, dù một số loài có thể có những cơ quan tương tự như nắp mang. Và thay vì có mang nằm trong cơ thể, nòng nọc phát triển một cấu trúc mang nằm ngoài cơ thể, mọc từ bề mặt ngoài của các cung mang. Những mang ngoài này sẽ tiêu giảm khi nòng nọc biến thái, nhưng một số loài thì mang ngoài vẫn tồn tại. Cá phổi cũng có mang ngoài, và các loài thuộc chi Cá nhiều vây (Polypterus) cũng có mang ngoài nhưng cấu trúc của nó thì khác so với lưỡng cư.

Loài không xương sống

nhỏ|Mang hình lông chim nằm ở mặt bên phải của loài [[sên biển Pleurobranchaea meckelii.]]

Quá trình hô hấp của các động vật da gai (bao gồm sao biển và nhím biển) được thực hiện thông qua một dạng mang rất nguyên thủy gọi là nốt nhú (papula, số nhiều papulae) nổi lên ở bề mặt "da" của chúng. Các nốt nhú này bao hàm các túi thừa nằm trong hệ thống mạch dẫn nước của con vật. Các loài giáp xác, thân mềm và một số loài côn trùng có các mang dạng búi hoặc dạng phiến mọc ra ngoài cơ thể.

nhỏ|phải|[[Ốc mượn hồn Caribê có các mang được thay đổi để có thể sống ở môi trường cạn.]]

Mang của các loài côn trùng khác thuộc dạng khí quản và bao hàm các cấu trúc hình búi và hình phiến. Trong trường hợp của thiếu trùng chuồn chuồn, vách của phần cuối ống tiêu hóa có rất nhiều khí quản hoạt động như các mang. Nước được bơm vào và ra khỏi ống tiêu hóa sẽ cung cấp khí ôxi cho hệ thống khí quản kín bao hàm các túi khí. Khí ôxi sẽ thường xuyên được nạp vào các túi này thay cho khí cacbonic sinh ra sau quá trình hô hấp.

Mang vật lý

Đây là kết quả của quá trình thích nghi với việc sống dưới nước của một số côn trùng. Loại mang này sẽ tích chứa ôxi trong không khí ở một khoang nhất định hàm chứa những lỗ thở nhỏ. Cấu trúc này (thường được gọi là yếm thường bao hàm nhiều lông cứng mọc dày đặc giúp ngăn cản nước chảy vào các lỗ thở, nhờ đó trong lỗ thở tồn tại một môi trường chứa không khí giúp con vật có thể thực hiện việc hô hấp giống như trên cạn. Khí cacbonic do con vật thải ra nhanh chóng hòa tan vào nước do độ tan tương đối cao, trong khi đó ôxi khuếch tán vào các bong bóng nước vì nồng độ trong các bong bóng nước đã giảm đi sau khi hô hấp, khí nitơ cũng khuếch tán ra ngoài vì sức căng của bóng đã tăng lên. Ở đây, khí ôxi đi vào bóng nước nhiều hơn so với khí nitơ đi ra ngoài, nhưng lượng ôxi trong phần nước bao quanh côn trùng có thể bị giảm mạnh nếu như nước không bị khuấy động, vì vậy các côn trùng này thường phải chủ động khuấy nước lên để "thu" ôxi.

Sự tồn tại của mang vật lý giúp côn trùng có thể thường xuyên ngụp lặn dưới nước sâu mà không cần ngoi lên để thở. Những ví dụ về các loài côn trùng sử dụng mang vật lý có thể kể đến như các loài bọ nước thuộc họ Elmidae, những loài mọt ngũ cốc sống dưới nước, và các loài thuộc họ Aphelocheiridae trong bộ Cánh nửa.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Các mảng kiến tạo trên thế giới được vẽ vào nửa sau của thế kỷ 19. **Kiến tạo mảng** (tiếng Anh: **plate tectonics**; tiếng Hy Lạp: τέκτων _tektōn_, nghĩa là "người xây dựng", "thợ nề")
**Màng tế bào** (hay ở sinh vật nhân thực còn được gọi là **màng sinh chất**) là một màng sinh học phân cách môi trường bên trong của các tế bào với môi trường bên
nhỏ|250 px|Đổ xi măng **Xi măng** (từ tiếng Pháp: _ciment_) là một loại chất kết dính thủy lực, được dùng làm vật liệu xây dựng. Xi măng được tạo thành bằng cách nghiền mịn clinker,
nhỏ|phải nhỏ|Các chấn tâm toàn cầu, 1963–1998 nhỏ|phải|14 mảng chính cộng mảng Scotia nhỏ|phải|Bản đồ mảng kiến tạo từ NASA Dưới đây là **Danh sách các mảng kiến tạo** trên Trái Đất. Các mảng kiến
[[Tập tin:Maternidad_subrogada_situación_legal.PNG|phải|Tình trạng hợp pháp của việc mang thai hộ: ]] **Mang thai hộ** (tiếng Anh: **surrogacy**) là việc một người phụ nữ mang thai và sinh con thay cho người khác. Người nhận con
**Hệ thống nội màng** (hay **hệ thống màng nội bào**, **hệ thống màng trong**, tiếng Anh: _Endomembrane system_) hình thành từ những màng khác nhau lơ lửng trong tế bào chất tế bào nhân thực.
**Tràn máu màng phổi** là sự tích tụ máu trong khoang màng phổi. Triệu chứng cơ năng của tràn máu màng phổi gồm đau ngực và khó thở, trong khi triệu chứng thực thể (triệu
**Tổng Công ty Xi măng Việt Nam** (**VICEM**) là một trong các Tổng công ty được tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 91/TTg ngày 07 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Lao màng não**, hay còn được gọi là **viêm màng não do** **lao** là một loại viêm màng não hiếm gặp do trực khuẩn lao (_Mycobacterium tuberculosis_) gây ra ở màng não — một hệ
Các mảng kiến tạo của [[Trái Đất được lập thành bản đồ cho giai đoạn nửa sau của thế kỷ XX.]] **Mảng kiến tạo**, xuất phát từ thuyết kiến tạo mảng, là một phần của
:_Bài này viết về mang như là một chi động vật nhai lại thuộc họ Hươu nai, các nghĩa khác xem bài Mang (định hướng)_. **Mang**, còn gọi là **hoẵng**, **kỉ**, **mển** hay **mễn**, là
**Mảng Nazca**, được đặt tên theo khu vực Nazca ở miền nam Peru, là một mảng kiến tạo đại dương ở vùng bồn địa miền đông Thái Bình Dương, ngoài khơi tây nam Nam Mỹ.
**Mảng Philippin** là một mảng kiến tạo nằm dưới đáy Thái Bình Dương ở phía đông của Philippines. Mảng Philippin bao gồm phần thạch quyển đại dương nằm dưới đáy biển Philippin, do đó nó
**Mảng châu Phi** là một mảng kiến tạo bao gồm lục địa châu Phi cũng như lớp vỏ đại dương nằm giữa châu lục này và các sống đại dương khác nhau bao quanh. Mặt
**Mảng Bắc Mỹ** là một mảng kiến tạo che phủ phần lớn Bắc Mỹ, Greenland và một số phần của Siberi thuộc Nga. Nó kéo dài về phía đông tới sống núi giữa Đại Tây
phải|nhỏ|Do [[trôi dạt lục địa, mảng Ấn Độ tách ra từ Madagascar và va chạm với mảng Á-Âu gây ra sự hình thành của dãy núi Himalaya.]] **Mảng Ấn Độ** hay **Mảng Ấn** là một
**Mảng Ấn-Úc**, **mảng Ấn Độ-Úc** hay **mảng Ấn Độ-Australia** là các tên gọi khác nhau của một mảng kiến tạo lớn, bao gồm châu Úc và vùng đại dương bao quanh, kéo dài về phía
Các chi tiết về các mảng kiến tạo từ: [[:Hình:Tectonic plates.png|bản đồ các mảng kiến tạo trên thế giới.]] **Mảng Caribe** chủ yếu là một mảng kiến tạo đại dương nằm dưới Trung Mỹ và
**Màng mỏng** (tiếng Anh: _Thin film_) là một hay nhiều lớp vật liệu được chế tạo sao cho chiều dày nhỏ hơn rất nhiều so với các chiều còn lại (chiều rộng và chiều dài).
**Viêm màng não** là bệnh chứng do viêm lớp màng mỏng bao bọc não và hệ thần kinh cột sống. Đa số là do vi trùng hay siêu vi trùng từ nơi khác trong cơ
PС (Portland Cement) **Xi măng Portland**, còn gọi là **Xi măng Portland thường** (OPC), là loại vật liệu được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới, nó là thành phần cơ bản của
**Chi Măng tây** (danh pháp khoa học: **_Asparagus_**) là một chi thực vật thuộc Họ Măng tây (Asparagaceae), và phân họ cùng tên (Asparagoideae). Chi này bao gồm 300 loài, phần lớn trong đó là
Trong khoa học máy tính, **cấu trúc dữ liệu mảng** hoặc **mảng** là một cấu trúc dữ liệu bao gồm một nhóm các phần tử giá trị hoặc biến, mỗi phần tử được xác định
**Mang thai giả** (giả mang thai) là sự xuất hiện của các dấu hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng và các triệu chứng liên quan đến mang thai khi người đó không thực sự
phải|nhỏ|400x400px|Sự khác biệt về nồng độ của [[ion ở hai phía đối diện của màng tế bào dẫn đến điện thế được gọi là _điện thế màng_. Các giá trị điển hình của điện thế
nhỏ|300x300px|[[Tàu ngầm Đề án 651|Tàu ngầm Đề án 651 (Juliet) mang tên lửa hành trình]] nhỏ|300x300px|Tàu ngầm bắn thử nghiệm tên lửa Regulus **Cruise missile submarine** hay **Tàu ngầm mang tên lửa hành trình** là
**Mảng Scotia** là một mảng kiến tạo đại dương có ranh giới phía bắc với mảng Nam Mỹ, đông với mảng Nam Sandwich, và nam và tây là mảng Nam Cực. Các ranh giới phía
phải|Hình khối mảng Juan de Fuca. [[USGS]] **Mảng Juan de Fuca** được đặt theo tên của nhà thám hiểm Juan de Fuca, là một mảng kiến tạo có ranh giới là sống núi Juan de
**Mảng Sunda** (chữ Anh: _Sunda plate_) là một mảng kiến tạo nhỏ nằm vắt ngang đường xích đạo tại Đông Bán cầu, trên đó phần lớn khu vực Đông Nam Á toạ lạc. Trước đây,
**Mảng Ả Rập** là một trong ba mảng kiến tạo (mảng lớp vỏ châu Phi, Ả Rập và Ấn Độ) đã chuyển động về phía bắc trong hàng triệu năm va chạm không thể tránh
**Mảng Nam Mỹ** là một mảng kiến tạo che phủ lục địa Nam Mỹ và trải dài về phía đông tới sống núi ngầm giữa Đại Tây Dương. Mặt phía đông của mảng là ranh
**Mảng Thái Bình Dương** là một mảng kiến tạo đại dương nằm dưới Thái Bình Dương. Về phía bắc của mặt phía đông là ranh giới phân kỳ với mảng Explorer, mảng Juan de Fuca
phải|Mảng Burma, chỉ ra các ranh giới với [[mảng Ấn Độ (rãnh Sunda) và mảng Sunda (xuyên suốt biển Andaman).]] **Mảng Burma** là một mảng kiến tạo nhỏ hay vi mảng nằm tại Đông Nam
Bản đồ vị trí mảng Okhotsk **Mảng Okhotsk** là một mảng kiến tạo bao phủ vùng biển Okhotsk, bán đảo Kamchatka, và miền Đông Nhật Bản. Trước đây nó từng được xem là một phần
**Măng tây** (danh pháp hai phần: _Asparagus officinalis_) là một loại thực vật dùng làm rau. Cây thảo có thân mọc ngầm trong đất, thường gọi là thân rễ. Thân rễ dày, mang nhiều rễ
Trong vật lý **phần tử mang điện** hay **phần tử tải điện** là phần tử hoặc hạt tự do di chuyển và có mang điện tích. Ví dụ các phần tử mang điện như điện
**Khoang màng phổi** là không gian chứa đầy chất lỏng mỏng giữa hai màng phổi (được gọi là nội tạng và thành phần) của mỗi phổi. Một màng phổi là một màng huyết thanh mà
**Màng của lục lạp** là cấu trúc không thể thiếu để lục lạp hoàn thành chức năng quang hợp. Giống như ty thể, lục lạp cũng có một lớp màng kép (double-membrane envelope), gọi là
nhỏ|250x250px|Schematic of semipermeable membrane during [[Thẩm phân máu|hemodialysis, where blood is red, dialysing fluid is blue, and the membrane is yellow.]] **Màng bán thấm** là một loại màng polyme tổng hợp hoặc sinh học cho
**Mảng Nam Cực** là một mảng kiến tạo che phủ lục địa Nam Cực và trải dài ra ngoài nằm dưới các đại dương bao quanh. Mảng Nam Cực có ranh giới với các mảng
**Mảng Cocos** là một mảng kiến tạo kiến tạo đại dương nằm dưới đáy Thái Bình Dương ngoài khơi vùng duyên hải miền tây Trung Mỹ, được đặt tên theo đảo Cocos là hòn đảo
Bản đồ mảng Amur và các mảng kiến tạo cận kề (tên mảng bằng [[tiếng Pháp).]] **Mảng Amur** hay **mảng Trung Hoa** là một mảng kiến tạo lục địa được đề xuất, che phủ khu
phải|nhỏ|300x300px|_[[Staphylococcus aureus_ tập trung thành màng sinh học trên một ống thông nội mạc]] **Màng sinh học** là một nhóm các vi sinh vật với các tế bào dính vào nhau và cũng thường dính
**Mang thai ở** **tuổi vị thành niên** là việc mang thai ở trẻ em gái vị thành niên dưới 20 tuổi. Mang thai có thể xảy ra khi quan hệ tình dục sau khi bắt
Trong sinh học, thuật ngữ **tính lỏng của màng** đề cập đến độ nhớt của lớp kép lipid của màng tế bào hoặc màng lipid tổng hợp. Khả năng lipid "đóng chặt" có thể ảnh
**Tiếng Mảng** (tiếng Trung:莽语) là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á của Việt Nam, Trung Quốc và Lào. Nó được nói chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Việt Nam và huyện Kim Bình,
**Người Mảng** (tên gọi khác: **Mảng Ư**, **Xá lá vàng**) là một dân tộc thiểu số cư trú ở bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam). Tại Việt Nam họ là một
**Mang Ấn Độ** hay **mang đỏ** (danh pháp khoa học: **_Muntiacus muntjak_**) là loài mang phổ biến nhất. Nó có lông mềm, ngắn ánh nâu hay xám, đôi khi với các đốm màu kem. Là
**Mang lá** hay **mang Putao** (danh pháp hai phần: **_Muntiacus putaoensis_**) là một loài mang nhỏ. Nó được phát hiện gần đây, vào năm 1997 bởi nhà sinh học Alan Rabinowitz trong chuyến nghiên cứu