✨Lê Ý

Lê Ý

Lê Ý (黎意; ?-1530) là quý tộc nhà Lê sơ, lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại nhà Mạc.

Tiểu sử

Lê Ý là dòng dõi "bên ngoại" tức là hậu duệ họ Lê nhưng không phải đích hệ (khác "ngoại thích" là thân tộc của các đời hoàng hậu, hoàng phi hoặc thái hậu).

Đến đời Lê Ý thì được phong làm "Thái An Công" (太安公).

Chống Mạc

Khởi binh

Tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi thành lập nhà Mạc.

Năm 1528, Lê Ý dấy binh ở Da Châu (Quan Hóa-Thanh Hóa) xưng hiệu là Quang Thiệu (khẳng định ông là người tiếp nối vinh quang của nhà Lê), chưa đầy một tháng nhân mã các châu huyện cùng tụ về được vài vạn người.

Lê Ý bèn cùng các bộ tướng của mình như: Lê Như Bích, Lê Bá Tạo, Hà Công Liêu, Lê Tông Xá, Nguyễn Cảo... bày doanh trại, chia quân thành cơ, thành đội, thành ngũ... rồi đặt súng lệnh, giương cờ hiệu, kéo ra đóng bên bờ sông Mã. Hào kiệt các nơi nghe thấy đều cho rằng khí vận nhà Lê lại thịnh, khắp nơi hướng về.

Chống Mạc Đăng Dung

Tháng tư năm Canh Dần (1530), Mạc Thái Tổ - Mạc Đăng Dung thân chinh đem mấy vạn quân thủy bộ vào Thanh Hoa. Hai bên giao chiến mấy trận quân Mạc đều thua cả, Mạc Thái Tổ thấy thế khó bèn lui binh về Thăng Long, để Lâm Quốc Công - thái sư Mạc Quốc Trinh ở lại trấn giữ dinh Hoa Lâm (?).

Thừa thắng Lê Ý đem quân đánh xuống Tây Đô (Vĩnh Lộc - Thanh Hóa), Mạc Quốc Trinh lại lui về Tống Giang (Ninh Bình).

Chống Mạc Đăng Doanh

Tháng 8, ngày 23, năm Canh Dần (1530) Mạc Đăng Dung đã về đến kinh đô, để Mạc Thái Tông đem quân vào Thanh Hoa, Mạc Thái Tông đem quân vào hội quân ở sông Hoằng Hóa (sông Lạch Trường - Thanh Hóa), rồi bàn với Lâm Quốc Công cùng tiến đánh Lê Ý.

Mạc Quốc Trinh dẫn 200 chiến thuyền đi tiên phong, hẹn ba ngày sau sẽ đến sông Đa Lộc (Yên Định, Thanh Hóa).

Trận sông Đa Lộc

Lê Ý biết quân nhà Mạc chia làm hai thì cả mừng, một mặt dàn quân sẵn ở sông Đa Lộc, lại tự mình đem quân tinh nhuệ bí mật theo đường tắt mà tiến trong đêm.

Tới sáng đến sông Yên Sơn (một đoạn của sông Mã) thì gặp quân của Mạc Quốc Trinh liền đánh tập hậu quân của Mạc Quốc Trinh.

Toàn quân nhà Mạc không biết quân nhà Lê ở đâu chui ra thì sợ hãi mà tan vỡ, bỏ thuyền nhảy lên bờ chạy tán loạn.

Lê Ý cưỡi ngựa, đốc suất các tướng xông pha trận mạc, tự tay đâm chết hơn 70 tên.

Quân Mạc đại bại, Lê Ý thừa thắng đuổi đánh, chém giết vô kể.

Trận Động Bàng

Mạc Thái Tông vẫn chưa biết là Mạc Quốc Trinh đã bị thua trận, y như kế hoạch tự mình đốc suất các tướng tiến đến xã Động Bàng (Thanh Hóa), tính đánh kẹp quân nhà Lê.

Lê Ý biết tin, bèn hăng hái xuống lệnh cho các tướng rằng:

"Nay được gặp bọn giặc lớn ở đây, nếu không quyết đánh thì không thể mong hưng phục được nhà Lê".

Các tướng nghe lệnh, đều dốc sức đánh.

Quân Mạc đánh mãi không thấy quân của Mạc Quốc Trinh thì đại loạn, quân nhà Lê được thế càng đánh càng hăng cả phá quân Mạc, chém được hơn một vạn tên, xác chết chồng chất lên nhau.

Quân nhà Lê thắng trận một ngày hai lần, uy danh vang dội, khiến cho quân Mạc phải chạy dài. Mạc Thái Tông phải rút về kinh thành, sai Mạc Quốc Trinh ở lại cố thủ.

Cái chết

Lê Ý đại thắng hai trận liền thu quân, triệt phá doanh trại, về đóng ở Da Châu, vì mới thắng luôn mấy trận nên sinh lòng kiêu ngạo, không còn lo phòng bị như trước, lại có ý coi thường đối phương.Gặp phải ngay lúc hết lương, có tướng bàn:

"Quân Mạc chưa diệt, chiến sự chưa yên, ta nên thúc quan lại các nơi điều động phu phen vận lương đến là được".

Lê ý không cho là phải, nói át đi:

"Phu phen điều một người là ở bản địa thiếu một người, nay quân ta đại thắng liên tiếp, ngụy Mạc khiếp sợ mà co cụm trong thành không dám đánh, sao không cắt vài ngàn quân về bản địa vận lương mà nỡ đặt điều lao dịch nặng nề như vậy".

Các tướng biết là không ổn nhưng thanh thế Lê Ý đang thịnh nên không ai dám bác, đành phải cắt mấy ngàn quân về hậu phương tải lương.

Đại quân thiếu đi lượng lớn nhân lực lại đang thả lỏng sau đại thắng nên doanh trại vô lực, quân dung rời rạc. Mạc Quốc Trinh nhận biết được thì mừng lắm, tức tốc đem năm ngàn tinh nhuệ đánh lên Da Châu.

Lê Ý không có chuẩn bị đem quân ra đánh, chống không nổi quân nhà Mạc bị bắt sống bỏ cũi đem về Thăng Long ngũ mã phân thây.

Quân tướng lớp bị giết, lớp chạy sang Ai Lao theo An Thanh Hầu - Nguyễn Kim, số còn lại thì cởi giáp về vườn. Cơ nghiệp họ Lê coi như kết thúc từ đây.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Ý** (黎意; ?-1530) là quý tộc nhà Lê sơ, lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại nhà Mạc. ## Tiểu sử Lê Ý là dòng dõi "bên ngoại" tức là hậu duệ họ Lê
**Lê Ý Tông** (chữ Hán: 黎懿宗 29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là **Lê Duy Thận** (黎維祳) (hay Lê Duy Chấn) là vị Hoàng đế thứ 14 của
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Lê Quang Trị** (chữ Hán: 黎光治 1508 - 28 tháng 07, 1516) là một vị hoàng đế nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Do được lập lên ngôi và phế truất trong thời
hay **Vĩnh Khánh Đế** hoặc **Hôn Đức công**, là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Lê Trung hưng và thứ 23 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Lê Tân** (chữ Hán: 黎鑌; 19 tháng 8, 1466 – 6 tháng 11, 1502), còn gọi là **Lê Đức Tông** (黎德宗) hay **Kiến Trinh Tĩnh vương** (建貞靚王), ## Gia đình Kiến vương Lê Tân có
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Hệ thống y tế Singapore** chịu sự quản lý của Bộ Y tế Singapore. Nói chung Singapore có một hệ thống y tế trải rộng và hiệu quả. Y tế Singapore được xếp hạng 6
**Lê Niệm** (chữ Hán: 黎念, ? - 1485), là nhà chính trị, quân sự cao cấp của Đại Việt thời Lê. Ông quê ở xã Duy Trinh, huyện Thuần Hựu, là con trai của tướng
**Lễ cày tịch điền** là một lễ hội trước đây tại một số quốc gia như Việt Nam và Trung Quốc, do nhà vua đích thân khai mạc. Ngày cử hành thường là một ngày
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
**Cục Y tế Dự phòng** (tiếng Anh: _General Department of Preventive Medicine_, viết tắt là **VNCDC**) là cơ quan thuộc Bộ Y tế, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Y tế
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**_Án lệ 09/2016/AL_** là án lệ công bố thứ 9 thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là **đám cưới**, **lễ cưới** hoặc gọn hơn là **cưới**, gọi theo tiếng Hán-Việt là **giá thú**. Đối
**Án lệ** là một hình thức của pháp luật, theo đó Nhà nước thừa nhận những bản án và quyết định giải quyết vụ việc của tòa án (trong các tập san **án lệ**) làm
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
Ỷ Thiên Đồ Long ký là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, trong truyện có
thumb|alt=Cân thăng bằng trống|Hai đĩa cân thăng bằng này chứa không đồ vật, chia ra làm hai nhóm bằng nhau. Không là số chẵn. Nói theo cách khác, _tính chẵn lẻ_ của nó—đặc tính của
**Vũ Lệ Quyên** (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1981), thường được biết đến với nghệ danh **Lệ Quyên**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội trong một gia
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Trần Lệ Xuân** (22 tháng 8 năm 1924 – 24 tháng 4 năm 2011), còn được gọi tắt theo tên chồng là **bà Nhu** (), là một gương mặt then chốt trong chính quyền Ngô
**Lê Thế Trung** (1928–2018), là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Thầy thuốc Nhân dân,
**Nền kinh tế Ý** là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Lê Thanh Vân** (sinh ngày 23 tháng 12 năm 1964) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026 thuộc đoàn Đại
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
**Án lệ 66/2023/AL** về việc xác định tội danh "Mua bán người" là án lệ thứ 66 thuộc lĩnh vực hình sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa
**Án lệ 59/2023/AL** về lỗi cố ý gián tiếp trong vụ án "giết người" là án lệ thứ 59 thuộc lĩnh vực hình sự của hệ thống pháp luật Việt Nam, được Hội đồng Thẩm
**Án lệ 57/2023/AL** về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội "cướp giật tài sản" là án lệ thứ 57 thuộc lĩnh vực hình sự của hệ thống pháp luật Việt
**Án lệ 55/2022/AL** về công nhận hiệu lực của hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức là án lệ thứ 55 thuộc lĩnh vực dân sự của hệ thống pháp luật Việt Nam,
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
**_Án lệ 31/2020/AL_** về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ là quyền tài sản
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
**_Nghìn lẻ một đêm_** hay **_Ngàn lẻ một đêm_** (tiếng Ả Rập: _Kitāb 'Alf Layla wa-Layla_; tiếng Ba Tư: _Hazâr-o Yak Šab_) là bộ sưu tập các truyện dân gian Trung Đông và Nam Á
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Ỷ Lan** (chữ Hán: 倚蘭, 7 tháng 3, năm Giáp Thân (1044) – 25 tháng 7, năm Đinh Dậu (1117) hay còn gọi là **Linh Nhân Hoàng thái hậu** (靈仁皇太后), là phi tần của Hoàng
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại