✨Kokia

Kokia

là một ca sĩ – nhạc sĩ người Nhật, cô thường được gọi là Kokia (viết là KOKIA). Cô được biết đến nhờ vào bài (bài hát giữ vị trí số 1 tại Hồng Kông khi nó được cover bởi Trịnh Tú Văn) và "The Power of Smile." Cô cũng được ký hợp đồng thu âm, phân phối các sản phẩm anime/game soundtracks, một trong những bản làm nên tên tuổi của cô là "Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)" trong phim Gin-iro no kami no Agito, "Follow the Nightingale" trong game Tales of Innocence, và "Tatta Hitotsu no Omoi" trong anime Gunslinger Girl: Il Teatrino.

Kokia thường biểu diễn ở châu Âu, với việc ca hát và phát hành âm nhạc thông qua Wasabi Records, một chi nhánh của Kazé.

Đời thường

Khi còn nhỏ

Kokia sinh năm 1976 và được mẹ nuôi lớn. Cô bắt đầu chơi Violon vào lúc 2 tuổi rưỡi, tuy nhiên, cô lại tỏ ra thích thú với cây Piano của gia đình hơn. Thông thường, thay vì chơi với đồ chơi, Kokia thường chơi với cây Piano. Cô nhớ rằng, mình đã từng đặt những cuốn sách hình lên giá nhạc, và đàn theo mỗi khi âm nhạc xuất hiện trên màn hình. và opera, và theo đuổi chuyên môn opera tại Trường âm nhạc Toho Gakuen.

Trong thời gian đại học, một người bạn đã đưa bản thu âm demo của Kokia cho những nhà thu âm. Một số ít single đầu tiên của cô không được sáng tác bới cô, thay vào đó là do Hinata Toshifumi vàKanno Yoko viết. Không như những đĩa đơn khác sau đó, đa phần là những bài hát do chính Kokia viết. tuy nhiên, single dẫn đầu của cô từ Album, , đã thành công rực rỡ tại Hồng Kông. NÓ được trao giải 3 năm 1999 tại Giải thưởng nhạc pop quốc tế Hồng Kông (香港國際流行音樂大赏). Và bài hát trở thành Hit tại thành phố Hồng Kông. Album được phát hành dưới trướng của Victor Entertainment. Năm 2001, cô trở lại công chúng như là thành viên của Victor, và phát hành 3 single tiếp theo của mình. và tại một buổi hòa nhạc với hơn 120.000 người vào năm 2001 để chào mừng năm mới trong sự kiện countdown 2001 tại Đài Loan. Album tiếp theo, Remember Me, cũng nằm trong top 20 và bán trên 45.000 bản. Đây là bài hát đánh dấu sự kết thúc của sự nghiệp tham gia thị trường âm nhạc Trung Quốc của cô.

Album thứ tư của Kokai Uta ga Chikara (phát hành năm 2004) cũng sớm đạt được thành công khi bán được 20.000 bản. Bộ sưu tập các bài hát hay nhất đã vươn lên vị trí 19 trong bảng xếp hạng các album.

Vào tháng 12 năm 2007, Kokia giành được thành công thứ hai trong việc phát hành đĩa đơn về game/anime của mình, với "Follow the Nightingale." Bản nhạc đã được dùng cho game Tales of Innocence, và đạt được hạng 30 trên Oricon.

Nghệ thuật

Giọng hát

Giọng hát của cô thường được khen tặng bởi các nhà phê bình cho chất giọng trong trẻo sáng sủa. Nó đã diễn tả bởi Key trong JaME World như là dễ hỏng và nghe rõ cả tiếng thở.

Năm 2004, trên chương trình truyền hình TV Daimei no Nai Ongaku-kai 21 (題名のない音楽会21), Kokia đã thử cố gắng phá vỡ Kỉ lục Guinness Thế giới cho việc giữ nốt cao lâu nhất. Việc trình diễn khả năng cappella của cô 'O Sole Mio, cô đã giữ nốt trong 29.5 giây, tuy nhiên đã không thể phá vỡ kỉ lục.

Sáng tác nhạc

Từ album thứ hai của mình, Trip Trip, Kokia đã viết tất cả các bài hát gốc xuất hiện trong album của cô. Tại "Chōwa Oto", Kokia cũng đã chia nốt nhạc (các số 3 25 15 21 23 và 1) tương xứng với các ký tự của bản chữ tiếng Anh English alphabet (1=A, 26=Z) để viết lên tên bài hát wāpuro rōmaji (C Y O U W A).

Cuộc sống cá nhân

Nghệ sĩ Violin Yoshida Kyoko là chị của Kokia, và cũng tham gia vào Trường âm nhạc Toho Gakuen.

Ông của Kokia là nhà quản lý công ty đóng tàu của Nhật Bản. Cô đã sản xuất một ấn phẩm phim ngắn là và bài hát (Grandfather's Ship) trong chính danh dự của ông.

Kokia được nuôi lớn trong gia đình Thiên chúa giáo, và tham gia vào các lễ mét mỗi Chủ nhật từ khi còn bé. Cô viết khá nhiều bài hát về Chúa, như "Why Do I Sing?," "Everlasting," và .

Kokia làm việc theo chủ nghĩa Nhân đạo. Tại trường, cô là thành viên của hội những người tình nguyện và cố gắng giúp đỡ những người tàn tật, người già và các nạn nhân AIDS. hoặc về cách mà con người sống tốt hơn. Kokia nhấn mạnh việc sáng tác các bài hát của mình về tình yêu và hoà bình..

Kokia cũng là một người yêu chó. Trong suốt thập kỉ đầu của thế kỉ 21, cô sở hữu bốn con chó tên là: Donna, Muta, Nero và Titti. Tuy nhiên, Dona đã qua đời vào tháng 2 năm 2010. Cô đã nhắc đến những con chó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, như , và trong "Say Hi!!," khi lời nhạc nói về "lái xe ra bãi biển để chơi với Dona của chúng ta." Nhiều bài đăng trên blog cá nhân của cô đều đề cập xung quanh các chú chó, và cô còn phân mục đặc biệt cho những bài đăng này.

  • 1999: Songbird
  • 2002: Trip Trip
  • 2003: Remember Me
  • 2004: Uta ga Chikara
  • 2006: Aigakikoeru: Listen for the Love
  • 2008: The Voice
  • 2008: Fairy Dance: Kokia Meets Ireland
  • 2008: Christmas Gift
  • 2009: Kokia Infinity Akiko: Balance
  • 2009: Akiko Infinity Kokia: Balance
  • 2010: Real World
  • 2010: outwork collection 「p i e c e s」
  • 2010: "Bungaku Shoujo" Memories Soundtrack I - Yumemiru Shoujo no Zensoukyoku
  • 2011: Moment
  • 2013: Where to go my Love?

Album tự sản xuất

  • 2006: Pearl: The Best Collection
  • 2008: Kokia Complete Collection 1998-1999
  • 2009: Coquillage: The Best Collection II
  • 2010: Musique a la Carte (cover album)
  • 2011: ''Pieces
  • 2012: ''Kokoro Bakari

Những đĩa đơn xếp hạng 50

  • 1998: "Tears in Love"
  • 1998: "Ai no Rinkaku"
  • 1998: "Itoshite Irukara"
  • 1999: "Arigatou..."
  • 2001: "Tomoni"
  • 2001: "Tenshi"
  • 2001: "Say Hi!!"
  • 2002: "Ningenttesonnamonone"
  • 2003: "Kawaranai Koto (Since 1976)"
  • 2003: "The Power of Smile/Remember the Kiss"
  • 2004: "So Much Love for You"
  • 2004: "Yume ga Chikara"
  • 2005: "Time to Say Goodbye"
  • 2005: "Dandelion"
  • 2006: "Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)"
  • 2007: "Follow the Nightingale"
  • 2007: "Arigatō..."
  • 2008: "Tatta Hitotsu no Omoi"
  • 2009: "Karma"
  • 2009: "Transparent"
  • 2010: "Road to Glory~long journey~"
  • 2010: "Fate"
  • 2011: "Sakura no Ki no Shita/Hikari no Hou he"
  • 2012: "New Day, New Life"
  • 2012: "Hikari o Atsumete"
  • 2012: "Memorial Days"
  • 2012: "Yume Tsuinin/Ita Gakkan Koutougakkou Kouka"
  • 2013: "Kioku no Hikari"
  • 2013: "Battle of Destiny"
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Kokia drynarioides_** là một loài thực vật có hoa thuộc họ Malvaceae, là loài đặc hữu của Hawaii. Nó sống trong các rừng khô ở độ cao . ## Hình ảnh Tập tin:Kokia cookei
**_Kokia lanceolata_** là một loài thực vật có hoa thuộc họ Malvaceae. Loài này chỉ có ở Hawaii.
là một ca sĩ – nhạc sĩ người Nhật, cô thường được gọi là **Kokia** (viết là **KOKIA**). Cô được biết đến nhờ vào bài (bài hát giữ vị trí số 1 tại Hồng Kông
là loạt light novel của nữ tác giả Nomura Mizuki, do Takeoka Miho minh hoạ. Được xuất bản bởi Enterbrain dưới ấn hiệu Famitsu Bunko kể từ ngày 28 tháng 4 năm 2006 cho đến
Dưới đây là danh sách các nghệ sĩ và các nhóm/ban nhạc J-pop. Khởi nguồn bằng sự tiến hóa từ dòng nhạc jazz và được gọi là Tân nhạc (_New Music_), phong cách âm nhạc
**Phân họ Cẩm quỳ** (danh pháp khoa học: **_Malvoideae_**) là một phân họ, tối thiểu là bao gồm chi _Malva_. Nó được Burnett sử dụng lần đầu tiên năm 1835, nhưng đã không được sử
**Gin-iro no kami no Agito** (銀色の髪のアギト, ぎんいろのかみのアギト) là một phim anime do Sugiyama Keiichi đạo diễn và hãng Gonzo thực hiện. Bộ phim đã công chiếu lần đầu vào ngày 07 tháng 1 năm 2006.
**_Gunslinger Girl_** là loạt manga do Aida Yu thực hiện. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí dành cho shōnen là Dengeki Daioh vào tháng 11 năm 2002. Các chương được ASCII
(sinh ngày 10 tháng 7 năm 1997, tại Chiba) là ca sĩ, diễn viên, người mẫu và thành viên của nhóm nhạc nữ quốc dân Nhật Bản AKB48, hiện cô đang ở Team B.
Sự tuyệt chủng là một phần tự nhiên trong lịch sử tiến hóa của hành tinh. 99% trong số bốn tỷ loài tiến hóa trên Trái đất hiện đã biến mất. Hầu hết các loài