✨Ketuanan Melayu

Ketuanan Melayu

Ketuanan Melayu (nghĩa là "bá quyền của người Mã Lai") là một khái niệm chính trị nhấn mạnh tính ưu việt của người Mã Lai tại Malaysia hiện nay. Người Mã Lai tại Malaysia yêu sách về một vị thế đặc biệt cùng các quyền lợi đặc thù do họ cư trú từ lâu và thực tế là quốc gia Malaysia hiện nay tiến hóa từ một thực thể Mã Lai.

Người Hoa và người Ấn nhập cư tạo thành một thiểu số đáng kể tại Malaysia, họ được xem là phải chịu ân huệ của người Mã Lai vì được cấp quyền công dân, đổi lại người Mã Lai được cấp đặc quyền theo Điều 153 của Hiến pháp Malaysia. Dàn xếp trao đổi này thường được gọi là khế ước xã hội Malaysia. Khái niệm ketuanan Melayu thường được các chính trị gia trích dẫn, đặc biệt là những nhân vật từ Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất, chính đảng có ảnh hưởng nhất tại Malaysia. Trong lịch sử, các đảng có cơ sở phi Mã Lai phản đối chính trị mạnh mẽ nhất đối với khái niệm này.

Sự kiện bạo loạn sắc tộc vào năm 1969 tạo ra biến đổi lớn trong cách tiếp cận của chính phủ với các vấn đề sắc tộc, và dẫn đến thi hành một chính sách thiên vị mạnh người Mã Lai mang tên Chính sách Kinh tế Mới. Chính sách văn hóa quốc gia được ban bố vào năm 1970, nhấn mạnh sự đồng hóa các dân tộc phi Mã Lai vào dân tộc Mã Lai. Tuy nhiên, trong thập niên 1990 Thủ tướng Mahathir Mohamad bác bỏ cách tiếp cận này. Mặc dù tư tưởng này có từ khi Malaysia độc lập, song cụm từ ketuanan Melayu chỉ trở nên thịnh hành từ đầu thập niên 2000.

Tiền độc lập

thumb|Người Anh công nhận các quân chủ Mã Lai có chủ quyền đối với Malaya.

Chủ nghĩa dân tộc Mã Lai sơ khởi

Từ khi các thế lực ngoại bang xâm chiếm, chủ nghĩa dân tộc Mã Lai trở thành một phong trào chính trị có tổ chức. Tuy nhiên, những người Hoa và người Ấn nhập cư không nhìn nhận bản thân là người Malaya. Một báo cáo của Thứ trưởng Thường trực Bộ Thuộc địa Anh Quốc vào đầu thập niên 1930 viết rằng "số người phi Mã Lai chấp thuận Malaya là quê hương của họ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ cư dân".

Mặc dù người Anh cai trị hữu hiệu đối với Malaya, song trên pháp lý người Mã Lai bị buộc phải tuân theo các hiệp định hư cấu để tiếp thu sự thống trị của người Anh thông qua một chế độ trú quản. Cao ủy Anh Hugh Clifford bày tỏ hệ tư tưởng của Anh mà theo đó hợp lý hóa chủ nghĩa thực dân tại Malaya khi ông tuyên bố "mọi người trong quốc gia này hãy lưu tâm đến thực tế rằng đây là một quốc gia Mã Lai, và người Anh chúng tôi đến đây theo lời mời của các quân chủ Mã Lai điện hạ của họ, và nhiệm vụ của chúng tôi là trợ giúp người Mã Lai cai trị quốc gia của mình."

Bề ngoài, người Anh chấp thuận một chính sách "thân Mã Lai" công khai để người Mã Lai có thể, theo lời của Cao ủy Laurence Guillemard, được trang bị nhằm "đạt được vị thế thích hợp của mình trong sinh hoạt hành chính và thương nghiệp trong các quốc gia này." Trong thực tế, người Mã Lai không thuộc tầng lớp thượng lưu cảm thấy bị gạt ra ngoài lề do các chính sách kinh tế và chính trị của chính phủ thực dân, trong khi trên thực tế họ là trụ cột trong quyền lực của người Anh, và các chính sách kinh tế và nghề nghiệp được tách biệt theo giới hạn dân tộc.

Các cộng đồng phi Mã Lai sinh tại địa phương sớm khởi đầu đấu tranh giành quyền tự trị. Năm 1936, cộng đồng người Ấn sinh tại Malaya yêu cầu Cao ủy Shenton Thomas ban cho họ một phần các chức vụ hành chính. Thomas bác bỏ yêu cầu này, quy người Ấn sinh tại địa phương là "người ngoại quốc". Mặc dù người Anh có vẻ nhìn nhận người Hoa là một "lực lượng lao động tạm thời," với các thống kê biểu thị rằng hầu hết người Hoa nhập cư cuối cùng sẽ trở về quê, song các nhà phê bình tranh luận rằng dân số người Hoa sinh tại địa phương tăng trưởng đều đặn. Tuy thế, người Anh khẳng định rằng sẽ nguy hiểm nếu nhận định người Hoa có "một khuynh hướng định cư vĩnh cửu"; cộng đồng người Ấn sinh tại địa phương chiếm 20% dân số người Ấn, phần còn lại là các lao động phổ thông nhập cư với lý do tương tự như người Hoa khi đó, họ cũng phần lớn bị bỏ qua.

Người Anh giữ người Mã Lai trong sinh hoạt nông dân "truyền thống" của họ nhiều nhất có thể, hạn chế di chuyển, kinh doanh và giáo dục. Chính sách này được duy trì với lòng tin rằng việc được giáo dục đã khiến người Bengal tại Ấn Độ bất mãn và nổi loạn. Người Anh chỉ mời giai cấp thống trị Mã Lai tham dự chính phủ và các vấn đề hành chính. Bất chấp việc loại trừ các dân tộc phi Mã Lai khỏi các chức vụ quyền lực tượng trưng, nhiều công vụ viên là người phi Mã Lai, nhiều trong số họ là người Ấn được biệt phái vì mục đích này.

Người Hoa sinh tại địa phương vốn giữ quyền lực kinh tế đáng kể, và trong thập niên 1920 họ bắt đầu chủ động nhằm đạt được một vị thế lớn hơn trong chính phủ Malaya. Phần lớn cộng đồng người Hoa, lúc này chiếm đến 45% dân số Malaya, vẫn là các lao động tạm thời. Tuy thế, cộng đồng người Hoa Eo biển, chiếm phần lớn người Hoa sinh tại địa phương, muốn được trao cho các chức vụ trong chính phủ và được công nhận là người Malaya. Một nhân vật lãnh đạo người Hoa Eo biển nói rằng "Ai bảo rằng đây là một quốc gia Mã Lai?... Khi Thuyền trưởng [Francis] Light đến, ông ấy đã tìm thấy người Mã Lai, hoặc các làng Mã Lai? Ông cha chúng ta đến đây và làm việc cực nhọc trong thân phận cu li — không thấy hổ thẹn khi làm cu li — và họ không gửi tiền của mình về Trung Quốc. Họ kết hôn và chi tiêu tiền của họ tại đây, và nhờ vậy Chính phủ có thể khai hóa quốc gia từ rừng rậm đến văn minh. Chúng ta đã trở thành bộ phận không thể tách rời của quốc gia này. Đây là quốc gia của chúng ta..." Những nhà trí thức người Mã Lai phản đối lập luận này, cho rằng lập luận như vậy hoàn toàn vô lý và đưa ra một suy diễn với người Hoa là thợ xây và Malaya là một ngôi nhà. Họ lập luận rằng, một thợ xây được trả công thì không được quyền chia phần sở hữu với ngôi nhà mà anh ta xây. Do vậy, họ phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm cấp quyền công dân hoặc các quyền lợi chính trị khác cho người Hoa.

Một số dân tộc Indonesia như người Java và Bugis di cư trong khu vực quần đảo Mã Lai trong thế kỷ 19 và 20, và rất nhanh chóng đồng hóa vào bản sắc văn hóa Mã Lai. Cuối cùng, những lời thỉnh cầu của người Hoa Malaya có vẻ có một số tác động với người Anh. Năm 1927, Thống đốc của Các khu định cư Eo biển gọi người Hoa là "các cư dân bản địa của Malaya thuộc Anh". Ngay trước khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa dân tộc Mã Lai bắt đầu nhấn mạnh ketuanan Melayu, họ lo ngại rằng các chính sách của người Anh đương thời dường như hướng đến việc thiết lập một dân tộc Malaya chung gồm cả người Hoa và người Ấn. Một số người Mã Lai do đó nỗ lực bảo tồn hiện trạng với người Anh là một bức tường chống lại các dân tộc phi Mã Lai. Những người khác bắt đầu kêu gọi về độc lập và chủ quyền của quốc gia Mã Lai, chẳng hạn như "Đại Indonesia".

Liên hiệp Malaya (1946–48)

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Anh tuyên bố thành lập Liên hiệp Malaya, cùng với đó là nới lỏng các chính sách nhập cư, giảm chủ quyền của các quân chủ Mã Lai, và không công nhận quyền tối cao của người Mã Lai, đặt Malaya là một quốc gia bảo hộ của Anh Quốc. Với tư cách các cư dân sinh tại địa phương, hầu hết người Hoa và người Ấn đủ điều kiện về quyền công dân theo nguyên tắc Jus soli của Liên hiệp. Với việc tất cả các dân tộc được đảm bảo quyền lợi bình đẳng, người Mã Lai trở nên bất mãn, ngay cả thành trì truyền thống của họ là công vụ cũng sẽ mở cửa đối với toàn bộ người Malaya. Ngay từ đầu, người Mã Lai đã không nhìn nhận bản thân nằm dưới nhãn "người Malaya".

Người Mã Lai trở nên có ý thức chính trị, kháng nghị việc thành lập Liên hiệp. Trong một cuộc họp, các tranh cổ động viết rằng "Malaya thuộc về người Mã Lai. Chúng tôi không muốn các sắc tộc khác được trao quyền lợi và các đặc quyền của người Mã Lai." Một tổ chức Mã Lai biểu thị với người Anh rằng các điều khoản quyền công dân của Liên hiệp sẽ dẫn đến "xóa bỏ sự tồn tại của chủng tộc Mã Lai cùng với lãnh thổ và các quân chủ của họ". Một nhóm những người bảo hoàng và công vụ viên người Mã Lai dưới sự lãnh đạo của Onn Ja'afar thành lập Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (UMNO) nhằm phản đối việc hình thành Liên hiệp Malaya.

Mặc dù Liên hiệp được thành lập theo đúng kế hoạch, song chiến dịch kháng nghị vẫn tiếp tục; đến năm 1948, người Anh thay thế Liên hiệp Malaya bằng Liên bang Malaya. Liên bang khôi phục chủ quyền cho các quân chủ Mã Lai, thắt chặt các hạn chế nhập cư và quyền công dân, và trao cho người Mã Lai đặc quyền. Tuy thế, mục tiêu công khai của người Anh vẫn giống như trong năm 1946: nhằm thi hành "một hình thức quyền công dân chung mở rộng với tất cả mọi người, không phân biệt sắc tộc, những người nhận định Malaya là quê hương thực sự của mình và là đối tượng mà họ trung thành."

Sự đối lập hạn chế với ketuanan Melayu và Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất trong giai đoạn này đến từ một liên minh giữa Hội đồng Hành động Liên hiệp Toàn Malaya (AMCJA) và Pusat Tenaga Rakyat (PUTERA). Mặc dù một trong các tổ chức cấu thành của PUTERA khẳng định ketuanan Melayu là một "quyền lợi huyết thống dân tộc" của người Mã Lai, song PUTERA sát cánh cùng AMCJA trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi chính trị bình đẳng cho các dân tộc phi Mã Lai. Sau khi người Anh từ chối lưu ý đến liên minh PUTERA-AMCJA, họ rút khỏi các cuộc đàm phán với người Anh, sau đó phát động một tổng đình công lớn nhằm kháng nghị những điều mà họ cho là khuyết điểm của chính thể mới. Sau khi Liên bang được thành lập bất chấp sự chống đối của họ, liên minh tan rã. Thành viên của AMCJA hầu hết thuộc các dân tộc phi Mã Lai, song họ không đại diện cho một phần lớn của các cộng đồng phi Mã Lai tại Malaya.

Một số sử gia kết luận thất bại của Liên hiệp khiến người Hoa nhận thức được sự cần thiết về đại diện chính trị. Một chính đảng vận động cho quyền lợi chính trị của người Hoa mang tên Công hội người Hoa Malaya (MCA) được thành lập ngay sau khi thành lập Liên bang. Những người khác cho rằng động lực chính đằng sau sự tham gia của các dân tộc phi Mã Lai trong chính trị Malaya, và việc họ khẳng định các quyền lợi nhất định, là do sự gia tăng của số lượng người phi Mã Lai sinh tại địa phương. Báo cáo tương tự đến từ Thứ trưởng Thường trực của Bộ Thuộc địa từ trước đó rằng người phi Mã Lai sinh tại Malaya "chưa từng trông thấy lãnh thổ quê hương mình và họ yêu cầu rằng con và cháu của họ nên được đối xử công bằng."

Hướng tới độc lập

Đạt được mục tiêu ban đầu, Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất xác định bản thân là một chính đảng đấu tranh vì độc lập. Đồng thời, Đảng Cộng sản Malaya (MCP) phát động nổi loạn vũ trang nhằm thiết lập một chính phủ cộng sản tại Malaya, lên đến cực điểm trong Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo dài cho đến sau khi độc lập. Trong cuộc nổi loạn, xảy ra một sự phân chia sắc tộc rõ rệt; phản đối nổi loạn hầu như đều là người Mã Lai, trong khi người Hoa chi phối trong hàng ngũ cộng sản. Người Anh khuyến khích thành lập một Ủy ban Liên lạc Cộng đồng (CLC), gồm những thủ lĩnh hàng đầu trong giới chính khách Malaya từ các cộng đồng khác nhau, nhằm giải quyết các vấn đề nhạy cảm, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sắc tộc. Đạt được thỏa hiệp trên một số vấn đề, trong đó có quyền công dân, giáo dục, dân chủ, và quyền tối thượng Mã Lai. Cuối cùng, một sự "mặc cả" giữa người Mã Lai và các dân tộc phi Mã Lai được chế định; đổi lại việc từ bỏ ketuanan Melayu, người Mã Lai sẽ được hỗ trợ trong việc thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các cộng đồng Mã Lai và phi Mã Lai, Thành viên Ủy ban Liên lạc Cộng đồng E.E.C. Thuraisingham sau đó nói rằng, "Tôi và những người khác cho rằng người Mã Lai lạc hậu nên có được một sự đối đãi tốt hơn. Người Mã Lai cần được hỗ trợ nhằm đạt được sự cân bằng với các dân tộc phi Mã Lai nhằm tạo nên một quốc gia Malaya thống nhất trong bình đẳng."

Các vấn đề tiếp tục nổi lên, nhiều thanh niên người Hoa Malaya bị cưỡng bách tòng quân nhằm chống các cuộc tấn công của cộng sản song đã tẩu thoát khỏi quốc gia; hầu hết những người tham dự tiếp nhận giáo dục tiếng Anh và không được tiếp nhận giáo dục tiếng Hoa. Đối với người Mã Lai, điều này biểu thị rằng người Hoa không có lòng trung thành đặc biệt với Malaya và hợp lý hóa ketuanan Melayu, làm tăng thêm nhận thức tương tự bắt nguồn từ sự phân chia sắc tộc rõ ràng giữa những người mạnh mẽ phản đối cộng sản và những người ủng hộ Đảng Cộng sản Malaya.

Đầu thập niên 1950, Onn Ja'afar đề xuất mở rộng quyền thành viên Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất cho toàn bộ các dân tộc Malaya, và đổi tên thành Tổ chức Dân tộc Malaya Thống nhất, theo đó sẽ giảm bớt nhận thức đoàn thể là một thế lực đấu tranh cho ketuanan Melayu. Onn Ja'afar thất bại trong một cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ, và từ chức vào năm 1951 để thành lập Đảng Độc lập Malaya (IMP). Người kế nhiệm lãnh đạo Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất là Tunku Abdul Rahman nhân vật này khẳng định quyền tối thượng Mã Lai ban đầu. Ông bày tỏ lo ngại về việc các dân tộc phi Mã Lai thiếu trung thành với Malaya, yêu cầu họ làm rõ lòng trung thành của mình trước khi được ban cho quyền công dân, phát biểu: "Với những người yêu mến và cảm thấy họ có trách nhiệm hoàn toàn trung thành với quốc gia này, chúng tôi sẽ hoan nghênh họ trong vị thế người Malaya. Họ cần phải thực sự là người Malaya, và họ sẽ có các quyền lợi và đặc quyền tương tự như người Mã Lai." Tuy nhiên, không lâu sau, vào năm 1952, ông có vẻ mâu thuẫn với bản thân và khẳng định rằng người Mã Lai bảo vệ vị thế đặc biệt của họ: "Malaya là của người Mã Lai và nó không nên bị quản lý bởi một sự hỗn hợp các sắc tộc."

thumb|Đầu thập niên 1950, có một phong trào ly khai tích cực của người Hoa Eo biển tại Penang nhằm kích động chống ketuanan Melayu.

Trong giai đoạn này, một số người Hoa Eo biển bắt đầu quan tâm đến chính trị địa phương, đặc biệt là tại Penang, tại đây có một phong trào ly khai tích cực của người Hoa. Họ đồng cảm với người Anh nhiều hơn là với người Mã Lai, đặc biệt tức giận khi bị ám chỉ là pendatang asing ("ngoại kiều"). Họ xa lánh cả Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất và Công hội người Hoa Malaya, cho rằng trong khi Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất và những người cực đoan Mã Lai có ý định khoách trương đặc quyền của người Mã Lai và hạn chế quyền lợi của người Hoa, thì Công hội người Hoa Malaya lại quá "ích kỷ", và không thể dựa vào được. Họ bực bội trước việc hợp nhất Các khu định cư Eo biển với Malaya, không có một cảm giác thuộc về một "Malaya cho người Mã Lai", nơi mà họ không được nhìn nhận là bumiputra (người bản địa). Một thủ lĩnh người Hoa Eo biển phẫn nộ tuyên bố, "Tôi có thể khẳng định là anak Pulau Pinang [một người con của Penang] thực chất hơn 99% người Mã Lai sống tại đây ngày nay." Do chính phủ kiên quyết bác bỏ ly khai, phong trào cuối cùng đuối dần.

Một số ý kiến cho rằng các dân tộc phi Mã Lai không cảm thấy trung thành với Malaya do họ không tự nhận là dân tộc Malaya và gắn bó hoàn toàn với xuất thân văn hóa dân tộc của mình. Nhằm chống lại điều này, vào năm 1952 quyền công dân được cấp cho gần như toàn bộ những người phi Mã Lai sinh tại địa phương, và quyền công dân kép bị cấm chỉ, buộc những người phi Mã Lai lựa chọn giữa quê hương tổ tiên và Malaya.

Khi Malaya chuyển dịch theo hướng tự quản, người Anh khởi xướng thể chế thành viên, theo mô hình của thể chế nội các; giống như CLC, thể chế thu hút thành viên từ các cộng đồng khác nhau, và sau đó được mô tả là thiết lập một tiền lệ cho sự chia sẻ quyền lực trong các nội các Malaya và Malaysia đa sắc tộc hậu độc lập. Đồng thời, người Anh cũng bắt đầu đặt khuôn khổ cho thể chế giáo dục quốc dân, theo đó sẽ thiết lập "một tình cảm công dân chung". Tuy nhiên, Báo cáo Barnes lại bị cộng đồng người Hoa mạnh mẽ phản đối vì "thấm đẫm chủ nghĩa dân tộc Mã Lai" và bênh vực ketuanan Melayu. Báo cáo Fenn-Wu được người Hoa ủng hộ song không được người Mã Lai tán thành. Cuối cùng, khuyến nghị trong Báo cáo Barnes về các trường quốc lập Anh ngữ được thi hành theo Sắc lệnh Giáo dục 1952, bất chấp người Hoa mạnh mẽ kháng nghị, họ lo ngại trước việc thiếu điều khoản cho các trường học bản ngữ phi Mã Lai. "Báo cáo Razak" đề nghị rằng các trường tiểu học bản ngữ sẽ được phép duy trì, song chia sẻ một khóa trình chung với các trường quốc lập. Giáo dục trung học bản ngữ sẽ không được chế tài; chỉ các trường trung học quốc lập mới được tài trợ. Cộng đồng người Hoa tích cực phản đối Báo cáo Razak, phát động một chiến dịch có tổ chức nhằm chống đối; việc Công hội người Hoa Malaya từ chối phản đối Báo cáo Razak khiến họ chịu tổn thất chính trị tại một số khu vực bầu cử của người Hoa.

Nguồn gốc của ketuanan Melayu

Theo nhiều sử gia, nguồn gốc gây nên xung đột sắc tộc và ketuanan Melayu là việc thiếu pha trộn giữa người Mã Lai và các dân tộc phi Mã Lai. Một ngoại lệ là người Hoa Eo biển, họ giải quyết vấn đề đồng hóa tương đối tốt, song đồng hóa diễn ra trong 600 năm bao gồm cả liên hôn. Theo Minh thực lục, các tổ tiên của người Hoa Eo biển là tặng phẩm cho Quốc vương Malacca nhằm công nhận quan hệ song phương giữa Đại Minh và Malacca, và chủ quyền của người Mã Lai. Thời người Anh cai trị, hầu hết họ là các thương nhân giàu có thay vì là các lao động phổ thông và nhiều người thường xuyên nói tiếng Mã Lai, mặc y phục theo phong cách Mã Lai, và ưa thích ẩm thực Mã Lai.

Chính sách giáo dục của người Anh cách ly các sắc tộc khác nhau — cung cấp giáo dục công cộng tối thiểu cho người Mã Lai, để cho các dân tộc Mã Lai tự tiến hành giáo dục mà không cung cấp trợ giúp. Người Mã Lai chủ yếu là cư dân nông thôn, họ không được khuyến khích xã hội hóa với những người phi Mã Lai có tính thành thị hơn. Sự bần cùng về kinh tế của người Mã Lai đặt họ cách xa người Hoa có kinh tế tốt hơn cùng làm thổi bùng các tình cảm sắc tộc.

Yếu tố khác góp phần vào ketuanan Melayu là sự chiếm đóng của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh "đánh thức một nhận thức chính trị nhiệt thành trong người Malaya bằng cách tăng cường chủ nghĩa tự trị địa phương và thù hận sắc tộc". Các chính sách của người Nhật "chính trị hóa giai cấp nông dân Mã Lai", cố ý thổi bùng chủ nghĩa dân tộc Mã Lai. Hai sử gia Mã Lai viết rằng "Các hành động thù địch của người Nhật chống người Hoa và sự đối xử có vẻ thiện chí hơn của họ với người Mã Lai khiến cộng đồng người Hoa cảm thấy bản sắc riêng biệt của họ thêm sâu sắc..." Một nhà bình luận ngoại quốc tán thành, nói rằng "Trong giai đoạn chiếm đóng... cảm tình dân tộc Mã Lai trở thành một thực tế; nó chống đối mạnh mẽ người Hoa, và khẩu hiệu tập hợp của nó là 'Malaya cho người Mã Lai'..."

Liên minh-bầu cử hội đồng lập pháp liên bang 1955

Mặc dù Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất ủng hộ ketuanan Melayu, song họ hình thành một "Liên minh" với Công hội người Hoa Malaya và Đại hội người Ấn Malaya (MIC) để tranh cử trong cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp Liên bang 1955. Điều này khiến nhiều người bất ngờ, do Công hội người Hoa Malaya tích cực khẳng định về quyền lợi chính trị bình đẳng cho toàn bộ công dân. Chủ tịch của đảng là Trần Trinh Lộc (陈祯禄) là một người Hoa Eo biển, song không cực đoan như những người chủ trương ly khai. Mặc dù ban đầu bị cho là một sự kết hợp vụ lợi, song Liên minh giành được 51 trong số 52 ghế. Ghế còn lại thuộc về Đảng Hồi giáo Liên Mã Lai (PMIP; sau là PAS), một đảng có cơ sở trong cộng đồng Mã Lai và mạnh mẽ tán thành ketuanan Melayu. Thất bại hoàn toàn của các đảng phi chủng tộc khiến Liên minh nhận thấy không khí chính trị không thích hợp với các đảng đa sắc tộc. Một chính phủ liên minh gồm các đảng đơn dân tộc được hình thành, trong đó các lãnh đạo đảng hiệp thương riêng nhằm dàn xếp các quyết định được nhận định sẽ ổn định hơn và phủ hợp hơn với chính trị Malaya.

Trước bầu cử, Onn Ja'afar thay đổi cách tiếp cận của ông, hình thành Parti Negara sau khi IMP đại bại trước Liên minh trong bầu cử địa phương. Parti Negara tán thành các chính sách thân Mã Lai mạnh mẽ hơn, công nhận địa vị thống trị chính trị của người Mã Lai, song vẫn thất bại trong việc làm lung lay địa vị khống chế quyền lực của Liên minh. Tuy nhiên, một số cho rằng các đề xuất của Parti Negara gây ảnh hưởng tới các chính trị gia Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất theo hướng các chính sách thân Mã Lai triệt để hơn. Bản thân người Anh khẳng định chỉ chuyển giao quyền lực cho một chính phủ đa sắc tộc, và Liên minh được nhận định là đáp ứng yêu cầu này.

Độc lập và Malaysia

Độc lập và Hiến pháp

Liên bang Malaya chính thức độc lập từ Đế quốc Anh vào năm 1957. Hiến pháp của quốc gia mới gồm các điều khoản, như Điều 153, đảm bảo người Mã Lai có các đặc quyền nhất định, một loại đãi ngộ ưu đãi. Ủy ban Reid là cơ quan soạn thảo Hiến pháp, thế chế này phát biểu rằng Điều 153 có tính chất tạm thời, và cần phải được Quốc hội tái xét 15 năm sau độc lập. Tuy vậy, trong hiến pháp không trình bày rõ ràng về điều này, cũng không làm rõ mục đích của Điều 153. Hiến pháp tuyên bố rằng toàn bộ người Malaya bình đẳng theo luật pháp, không đề cập đến "quyền tối thượng Mã Lai" hoặc bất kỳ tư tưởng nào có liên hệ với ketuanan Melayu. Quyền công dân được cấp cho bất cứ ai sinh tại Liên bang, song không được hồi tố; đây là một nhượng bộ lớn của người Mã Lai, cộng đồng từng vận động mạnh mẽ nhằm chống quyền công dân jus soli trong Liên hiệp Malaya.

Trên phương diện khác, ngôn ngữ Mã Lai và Hồi giáo trở thành ngôn ngữ quốc gia và tôn giáo chính thức, các quân chủ Mã Lai được tại vị. Điều này được thực hiện nhằm mục đích khiến người Mã Lai được tôn trọng với vị thế cộng đồng mang tính quyết định của Malaya, và trong cách nhìn nhận của nhiều người là trao cho Malaya một bản sắc Mã Lai. Một học giả cho rằng "Người Mã Lai có một cảm giác ăn sâu rằng riêng họ là người bumiputra, những người con của đất, và do vậy có quyền lợi đặc thù nhất định đối với lãnh thổ." Tunku Abdul Rahman từng nói vào năm 1964 rằng "mọi người đều hiểu rằng quốc gia này theo ngay tên của nó, truyền thống và đặc tính của nó, là Mã Lai.... Tại bất kỳ quốc gia nào khác, nơi những ngoại kiều cố gắng chi phối kinh tế và các lĩnh vực khác, cuối cùng sẽ là phản đối gay gắt từ người bản địa. Tuy nhiên, điều này không đúng với người Mã Lai. Do đó, đổi lại, họ cần phải đánh giá đúng vị thế của người Mã Lai..."

Hạn chế hiến pháp về quy mô các khu vực bầu cử quốc hội nông thôn sau đó được loại bỏ, tạo ra điều mà một nhà bình luận gọi là "một trụ cột gián tiếp" cho đặc quyền của người Mã Lai; do người Mã Lai tập trung tại các khu vực nông thôn, điều này gián tiếp tăng cường quyền lực chính trị của người Mã Lai. Hiến pháp nguyên bản hoàn toàn tuân theo phổ thông đầu phiếu, cải biến được tuyên bố là "trao cho mỗi người một phiếu, một số phiếu khác: được nói là không dựa trên năng lực tri thức hoặc bất thường địa lý, mà nhằm đảm bảo sự thống trị của một nhóm cụ thể."

Các điều khoản hiến pháp được gọi là "Nghị trình người Mã Lai" chỉ tạo ra ít cảm tình bất mãn từ các dân tộc phi Mã Lai, mặc dù hầu hết trong số họ giành được quyền công dân và do đó về lý thuyết được bình đẳng với các công dân người Mã Lai theo hiến pháp. Điều này có thể được quy là sự chấp thuận đối với khế ước xã hội, một sử gia viết rằng: "Tại cấp thượng lưu, những người phi Mã Lai công nhận rằng người Mã Lai có địa vị chính trị cao hơn do địa vị bản địa của họ và rằng chính thể Malaysia sẽ có một đặc tính Mã Lai... Người Mã Lai sẽ được đảm bảo đa số an toàn trong cả nghị viện cấp bang và liên bang... Người Mã Lai sẽ kiểm soát các chức vụ cao nhất trong chính phủ và... các thành viên chiếm ưu thế trong nội các liên bang." Một sử gia Mã Lai viết rằng "Đổi lại người Hoa giành được nhiều hơn những điều mà người Hoa hải ngoại tại Đông Nam Á mộng tưởng — quyền công dân bình đẳng, tham gia chính trị và giữ các chức vụ công vụ, cơ hội kinh tế nguyên vẹn, khoan dung đối với các thể chế ngôn ngữ, tôn giáo, và văn hóa của họ."

Một số bày tỏ bất an về Điều 153; ngay trước khi độc lập Trung Quốc báo viết rằng trong khi đặc quyền "có thể dung thứ được khi bắt đầu kiến thiết một quốc gia," song nếu "thời kỳ 'đặc quyền' không bị hạn chế, hoặc mục đích của đặc quyền không được xác định rõ ràng, thì tranh chấp không ngừng... sẽ phát sinh về sau," và kết luận rằng đặc quyền cuối cùng sẽ phân liệt thay vì thống nhất người Malaya. Tuy thế, vào thời điểm độc lập, một số sử gia khẳng định "có một cảm giác chân thực về quyền công dân chung, nguyện vọng chung, và một vận mệnh chung.".

Hợp nhất

Năm 1961, khi chính phủ Malaya bắt đầu thảo luận về khả năng hợp nhất với các lãnh thổ lân cận Singapore, Sabah, Sarawak và Brunei, các vấn đề về quan hệ quyền lực dân tộc lại nổi lên. Đề xuất "Malaysia" không bao gồm Sabah và Sarawak đã có từ hơn một thập niên; song các đàm phán trước đó không có kết quả. Bản thân người Singapore không khao khát được cai trị bởi một thế chế mà học nhận định là một chính phủ của người Mã Lai. Tuy nhiên, đến năm 1961, Singapore dần tiếp thu ý tưởng về vấn đề gia nhập Malaysia, phần lớn là do tư tưởng phổ biến đương thời rằng Singapore công nghiệp hóa không thể tồn tại mà không được tiếp cận thị trường Malaya.

Chính phủ Malaya không thiết tha với việc có thêm cư dân người Hoa Singapore, họ sẽ đẩy người Mã Lai xuống địa vị thiểu số trong Malaysia mới. Nhiều người Mã Lai cảm thấy rằng để mất tính chất chi phối của người Mã Lai trong quân đội và cảnh sát sẽ đặt họ vào một tình huống nguy hiếm. Cũng có lập luận rằng vị thế kinh tế thấp kém của người Mã Lai sẽ càng rõ nét khi tiếp nhận một cộng đồng người Hoa còn giàu có hơn, gây nên bất mãn lớn. Người Malaya quyết định giải quyết điều này bằng cách hợp nhất với Sabah và Sarawak; cả hai đều là thuộc địa của Anh và có một lượng lớn cư dân bản địa được chính phủ nhận định là người "Mã Lai". Tuy nhiên, theo Điều 160 của Hiến pháp; hầu hết họ không phải là người Mã Lai; các cư dân bản địa chủ yếu theo thuyết vật linh hoặc Cơ Đốc giáo thay vì Hồi giáo như yêu cầu trong Hiến pháp. Nhằm giải quyết vấn đề này, chính phủ mở rộng định nghĩa chính thức của người "Mã Lai" nhằm bao gồm những cộng đồng này.

Người Sabah và Sarawak không nhận thấy họ được hưởng lợi từ việc hợp nhất này. Nhiều người xem Malaya chỉ là cho người Mã Lai, một nhóm người mà họ không thuộc về. Ám ảnh về "Malaysia" — việc bao gồm cụm từ "Malay" được cho là đáng sợ — cùng với tôn giáo chính thức là Hồi giáo và ngôn ngữ chính thức là tiếng Mã Lai, tuyệt nhiên không làm dịu những lo ngại của họ về "sự thống trị Mã Lai". Đề hợp nhất, họ khẳng định người bản địa tại Sabah và Sarawak phải được trao các đặc quyền tương tự như người Mã Lai.

"Malaysia của người Malaysia!"

Trong bầu cử năm 1963 tại Singapore, Liên minh thách thức quyền thống trị của Đảng Hành động Nhân dân (PAP) thông qua Đảng Liên minh Singapore. Các chính trị gia Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất tích cực vận động tại Singapore cho Đảng Liên minh Singapore, tranh luận rằng người Mã Lai Singapore bị đối xử như các công dân hạng hai dưới quyền chính phủ Đảng Hành động Nhân dân do người Hoa chi phối mặc dù bề ngoài là đa sắc tộc. Tuy nhiên, toàn bộ các ứng cử viên người Mã Lai được Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất ủng hộ đều thất cử trước Đảng Hành động Nhân dân. Các chính trị gia của Đảng Hành động Nhân dân nhìn nhận điều này là một sự phản bội thỏa thuận trước đó với Liên minh rằng hai bên không tranh cử tại Malaya và Singapore (tương ứng), do vậy họ quyết định tranh cử tại đại lục trong tổng tuyển cử năm 1964. Mặc dù Đảng Hành động Nhân dân thu hút đông quần chúng trong các cuộc tập hợp của mình, song họ chỉ giành được 1 ghế — đó là Devan Nair đại diện cho khu vực bầu cử Bangsar. Một số sử gia cho rằng do Bộ trưởng Tài chính và Chủ tịch Công hội người Hoa Malaysia Trần Tu Tín (陈修信) kêu gọi người Hoa tránh thách thức các quyền lợi đặc thù của người Mã Lai và nguy cơ hợp nhất với Indonesia, giúp Công hội người Hoa Malaysia duy trì vị thế là "lãnh đạo không bị tranh chấp của người Hoa tại bán đảo Mã Lai. Tuy thế, các lãnh đạo Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất giận dữ với Đảng Hành động Nhân dân.

thumb|[[Lý Quang Diệu là lãnh đạo trong chính phủ Singapore, ông công khai phản đối ketuanan Melayu, và truyền bá tư tưởng của mình về một "Malaysia của người Malaysia".]]

Các vấn đề mới nhanh chóng nảy sinh. Lãnh đạo chính phủ Singapore và Đảng Hành động Nhân dân là Lý Quang Diệu tuyên bố phản đối công khai của ông với ketuanan Melayu, kêu gọi về một "Malaysia của người Malaysia" thay vì mặc nhiên Malaysia của người Mã Lai.

Lý Quang Diệu sau đó than thở: "Malaysia - thuộc về ai? về người Malaysia. Tuy nhiên ai là người Malaysia? Tôi hy vọng có tôi, thưa ngài Bộ trưởng. Tuy nhiên đôi khi, ngồi trong phòng này, tôi hồ nghi bản thân có được phép làm một người Malaysia hay không. Đây là hồ nghi treo trong lòng nhiều người, và... [một khi] các cảm xúc chuyển thành hành động, và người với người đấu tranh theo những ranh giới hiểu ngầm này, ngài sẽ có một kiểu chiến tranh sẽ làm phân liệt quốc gia từ trên xuống dưới và phá hủy Malaysia." Tuy nhiên, có lúc Lý Quang Diệu làm cho mọi thứ tệ hơn khi có các bình luận chủng tộc. Nhiều phát biểu của ông lập lại về thành phần dân tộc của Malaysia, nhắc nhở thính giả rằng người phi Mã Lai hiện chiếm đa số, với 61% dân số so với 39% của người Mã Lai, một lần ông đặt câu hỏi "Tại sao chúng ta cần phải trở lại Singapore cũ và một lần nữa lại giáng người phi Mã Lai tại Malaya thành thiểu số?" Lý Quang Diệu làm xấu đi quan hệ Đảng Hành động Nhân dân-Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất khi liên tục yêu cầu rằng chính phủ liên bang nghiêm khắc đả kích những kẻ cực đoan chủng tộc, trong đó bao gồm các nhà lãnh đạo nổi bật của Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất như Syed Jaafar Albar và Syed Nasir Ismail.

Những phát biểu của Lý Quang Diệu khiến nhiều người khó chịu, đặc biệt là các chính trị gia trong Liên minh. Trần Tu Tín gọi ông là "kẻ nhiễu loạn lớn nhất trong lịch sử Malaysia và Malaya." Tunku Abdul Rahman nhận định Lý Quang Diệu có quan điểm cực đoan, trong khi các chính trị gia Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất khác cho rằng Lý Quang Diệu chỉ đơn giản là dùng ngôn luận nhằm để khích động người Hoa Malaysia. Phát biểu của Lý Quang Diệu về điều được cho là sự nhập cư gần đây của người Mã Lai bị bài xích nghiêm khắc; Albar tuyên bố: "Nói rằng người Mã Lai nằm trong cùng loại như các sắc tộc khác là một sự lăng mạ..." Báo Malaya Merdeka của Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất cảnh báo: "Nếu người Mã Lai phải chịu áp lực lớn và lợi ích của họ không được bảo vệ," họ sẽ hợp nhất Malaysia với Indonesia. Đây là điều mà Tunku Abdul Rahman lo ngại nhất, đối với ông thì những người cực đoan chủng tộc không phải là những người cực đoan thực sự, đó là những người mưu cầu một "Đại Indonesia" nhằm "giáo huấn" người Hoa rằng tồn tại một đe dọa thực tế.

Căng thẳng trong quan hệ chủng tộc dẫn đến các vụ náo loạn sắc tộc năm 1964 tại Singapore, Vào năm sau các vụ náo loạn, căng thẳng tiếp tục gia tăng. Syed Jaafar Albar tuyên bố rằng "Bất kể tôi ở đâu, tôi là một người Mã Lai", Lý Quang Diệu đáp trả gay gắt: "Nếu tôi đi xung quanh và nói điều mà [ông ta] đã nói — Bất kể tôi ở đâu, tôi là một người Hoa — chúng tôi sẽ được đối đãi như thế nào? Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục nhắc nhở nhân dân rằng tôi là một người Malaysia. Tôi đang học Bahasa Kebangsaan [tiếng Mã Lai, quốc ngữ] và tôi chấp thuận Điều 153 của Hiến pháp."

Lý Quang Diệu khẳng định rằng ông không phản đối các quyền lợi đặc thù của người Mã Lai hoặc Điều 153, nói rằng: "nếu các cộng đồng nhập cư... không nhận thức vấn đề, nếu họ không thể cảm thấy điều này giống như cảm thông cho một người Mã Lai bần cùng, vậy thì có thể nói rằng rất nhanh anh ta sẽ biểu thị sự bất mãn của mình theo một cách thức rất kiên quyết và toàn bộ quốc gia sẽ rơi vào hỗn loạn." Chỉ vài người trong Liên minh cho rằng tuyên bố này là nghiêm túc. Các chính trị gia Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất khẳng định rằng một "Malaysia của người Malaysia" bao hàm quyền bình đẳng hoàn toàn, dẫn đến thủ tiêu các đặc quyền của người Mã Lai. Một bộ trưởng trong chính phủ liên bang là Senu Abdul Rahman cảm nhận việc Lý Quang Diệu đề xướng sự bình đẳng sẽ cản trở khả năng tham gia kinh tế của người Mã Lai: "Điều mà chúng ta muốn là cơ hội, cơ hội đạt được thịnh vượng kinh tế cho nhân dân chúng ta." Chỉ trích Lý Quang Diệu vì phát biểu ông tự nhiên là một người Malaysia, Senu nói: "quyền lợi mà Lý Quang Diệu có được ngày nay không từ trên trời rơi xuống. Nó được trao cho ông ta. Sao ông ta không có chút cảm xúc biết ơn với những người bản địa của quốc gia này?" Lý Quang Diệu trả lời: "Không, Tôi không được hưởng khoản đãi của bất kỳ ai. Tôi ở đây là quyền lợi của tôi. Và 61% nhân dân Malaysia có bổn phận phải bênh vực điều đó hoặc nó sẽ mất đi. Không có nó họ sẽ không có tương lai." Một số người như Syed Jaafar Albar, đưa lập trường của Senu đi xa hơn và gọi người Mã Lai, với vị thế Bumiputra, như "những chủ nhà", khoản đãi của họ bị bangsa asing (ngoại kiều) hoặc orang tumpangan (người ở thuê) như Lý Quang Diệu lạm dụng. Điều này gây một phản ứng mạnh từ thành viên nội các Lâm Thụy An (林瑞安), ông khẳng định "chúng ta là cùng là chủ nhân, không có người thuê nhà, không có khách."

Một số nhân vật đi ngược lại quan điểm chung của Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất. Ismail Abdul Rahman phát biểu tại Quốc hội rằng "...cả Liên minh và Đảng Hành động Nhân dân tán thành quan điểm một Malaysia của người Malaysia," song có khác biệt trong phương pháp của họ. Ismail mô tả đặc điểm phương pháp tiếp cận của Đảng Hành động Nhân dân là "phương thức trực tiếp phi cộng đồng chủ nghĩa," trong khi Liên minh yêu cầu "hai bước. Thứ nhất là hài hòa giữa các sắc tộc; thứ hai là cuối cùng có một quốc gia phi cộng đồng chủ nghĩa." Những tuyên bố này bị Lý Quang Diệu bác bỏ vì cho là lời nói xoa dịu và không thể được thực hiện nghiêm túc trừ khi những người cực đoan chủng tộc bị kiềm chế.

Phân tách

Lý Quang Diệu tiếp tục chiến dịch của mình, thành lập Đại hội Đoàn kết Malaysia (MSC) gồm các đảng đa sắc tộc như Đảng Hành động Nhân dân, Đảng Tiến bộ Nhân dân (PPP) và Đảng Dân chủ Liên hiệp (UDP) vào năm 1965. Trong cuộc họp toàn thể lần đầu tiên và duy nhất của MSC, một số lãnh đạo từ các đảng này phát biểu ủng hộ một Malaysia cho người Malaysia. D.R. Seenivasagam của Đảng Tiến bộ Nhân dân cáo buộc Liên minh sử dụng Điều 153 để "áp bức người phi Mã Lai", trong khi Vương Kỳ Huy (王其辉) của Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak (SUPP) nói rằng "Chúng tôi nhận thấy một thái độ không khoan dung và gia tăng các dấu hiệu phủ nhận tình bình đẳng chính trị cho những người phi Mã Lai. Vì lợi ích của nước ta và bản thân chúng ta, điều này cần phải được ngưng lại... Quyền bình đẳng chính trị nên được ban cho toàn bộ những người sống tại đây và biến quốc gia này thành quê hương của họ, bất kể nguồn gốc sắc tộc của họ."

Ngay sau đó, nghị viên hậu tọa của Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất là Mahathir bin Mohamad công kích Lý Quang Diệu trong Quốc hội: "[người Hoa Singapore] chưa từng biết đến sự cai trị Mã Lai và không thể chịu đựng được ý tưởng rằng dân tộc mà họ từ lâu đã để dưới gót chân nay lại ở trong một vị thế cai trị họ." Lý Quang Diệu đáp lại bằng một bài phát biểu không soạn sẵn bằng tiếng Mã Lai, phản đối các chính sách thân Mã Lai của chính phủ: "Đương nhiên có những triệu phú người Hoa có xe lớn và nhà lớn. Đáp án có phải là tạo ra một vài triệu phú người Mã Lai có xe lớn và nhà lớn?... Nếu chúng ta lừa dối nhân dân tin rằng họ bần cùng do họ không có các quyền lợi Mã Lai hoặc do sự phản đối của một số thành viên với quyền lợi Mã Lai, chúng ta sẽ đi đến đâu? Các bạn khiến mọi người trong làng tin rằng họ bần cùng là do chúng tôi không nói tiếng mã Lai, do chính phủ không sử dụng tiếng Mã Lai, thế là anh ta hy vọng điều thần kỳ diễn ra [khi tiếng Mã Lai trở thành quốc ngữ duy nhất]. Thời điểm tất cả chúng tôi bắt đầu nói tiếng Mã Lai, anh ta sẽ được nâng cao chất lượng sinh hoạt, và nếu điều đó không diễn ra, thì sau đó điều gì sẽ diễn ra? Trong khi đó, bất cứ khi nào có một thất bại trong các chính sách kinh tế, xã hội và giáo dục, các bạn quay lại và nói rằng, ôi, do những người Hoa, người Ấn và những người khác phản đối quyền lợi Mã Lai xấu xa. Họ không phản đối các quyền lợi Mã Lai. Người Mã Lai có quyền lợi như những công dân Malaysia trong việc đạt đến trình độ đào tạo và giáo dục mà các xã hội cạnh tranh hơn, xã hội phi Mã Lai, đã tạo ra. Đó là những gì cần phải làm, chẳng phải sao? Không phải là nuôi dưỡng họ bằng học thuyết ngu dân rằng tất cả điều họ phải làm là giành quyền lợi Mã Lai có một vài người Mã Lai đặc thù và vấn đề của họ được giải quyết."

Cuối cùng Tunku Abdul Rahman chán nản với tất cả vận động chính trị và tin chắc rằng bất kỳ xung đột ngôn luận hơn nữa sẽ chỉ biến thành bạo lực, ông yêu cầu Singapore thoát ly. Singapore trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1965, Lý Quang Diệu giữ chức thủ tướng. Mặc dù Điều 152 trong Hiến pháp Singapore ghi rằng người Mã Lai là "dân nguyên trú" của Singapore và yêu cầu bảo vệ đặc biệt đối với quyền lợi và đặc quyền của họ, song không định rõ bất kỳ chính sách nào nhằm bảo vệ như vậy.

Sau này, một số người đổ lỗi việc thành lập Malaysia làm củng cố ketuanan Melayu: "Đúng như Ủy ban Reid có thể từng nghi ngờ, quyền lợi của người Mã Lai được tăng cường so với tình trạng bị hao mòn trước khi Malaysia thành lập 5-6 năm dựa trên một nền tảng đối xử tổng thể bất bình đẳng" sau khi hình thành Malaysia.

13 tháng 5 và Chính sách Kinh tế Mới

Vấn đề ngôn ngữ

Hiến pháp xác định trì hoãn 10 năm sau độc lập trong việc thay đổi ngôn ngữ quốc gia từ tiếng Anh sang tiếng Mã Lai. Mốc dự kiến là năm 1967 tới gần, một số người Hoa bắt đầu vận động cho một chính sách ngôn ngữ tự do hơn nhằm cho phép sử dụng Quan thoại trong một số công vụ. Những người cực đoan trong Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất và Đảng Hồi giáo Liên Malaysia đả kích họ, song Liên minh đề xuất một thỏa hiệp trong Dự luật Ngôn ngữ quốc gia mà theo đó xác định tiếng Mã Lai là ngôn ngữ chính thức, song cho phép tiếng Anh trong những hoàn cảnh nhất định và sử dụng các ngôn ngữ phi Mã Lai cho mục đích phi chính thức. Tunku Abdul Rahman mô tả điều này như "một bước đi đảm bảo hòa bình", song Dự luật bị nhiều người Mã Lai chế nhạo phổ biến, họ thành lập Mặt trận Hành động Ngôn ngữ Quốc gia với hy vọng hủy bỏ hoặc sửa đổi dự luật. Địa vị lãnh dạo của Tunku Abdul Rahman cũng bị nghi ngờ công khai.

13 tháng 5

Năm 1969, một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức. Đây là lần đầu tiên các đảng đối lập có cơ sở phi Mã Lai tranh cử trên một quy mô lớn, nếu không kể Đảng Hành động Nhân dân thách thức Liên minh tại Malaysia bán đảo vào năm 1964. Hai chính đảng chính ở phe đối lập trong tổng tuyển cử năm 1969 là Đảng Hành động Dân chủ (DAP) — tổ chức kế thừa tại Malaysia của Đảng Hành động Nhân dân, được nhận định phổ biến là có căn cứ tại cộng đồng người Hoa — và Parti Gerakan Rakyat Malaysia (Gerakan), một đảng bề ngoài là đa sắc tộc dưới quyền lãnh đạo của cựu đảng viên tích cực của Công hội người Hoa Malaysia là Lâm Thương Hựu (林苍佑), và các tri thức trung lưu khác như Trần Chí Cần (陈志勤) và Syed Hussein Alatas. Cả hai đảng đều đề xuất các chính sách về ngôn ngữ, giáo dục, và quyền lợi Mã Lai hoàn toàn đối nghịch với các chính sách của chính phủ, Đảng Hành động Dân chủ tiếp tục chiến dịch "Malaysia của người Malaysia" mà Lý Quang Diệu để lại. Một số nhân vật mà hầu hết là từ Đảng Hành động Dân chủ kêu gọi trao địa vị ngôn ngữ chính thức cho tiếng Anh, Quan thoại và tiếng Tamil bên cạnh tiếng Mã Lai. Họ cũng yêu cầu hỗ trợ cao hơn của chính phủ cho tiến trình giáo dục Hoa ngữ.

Trên phương diện khác, Đảng Hồi giáo Liên Malaysia nỗ lực thu hút phiếu bầu bằng cách cáo buộc Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất bán quyền lợi nguyên trú của người Mã Lai cho "pendatang asing" (ngoại kiều). Khi kết quả được công bố, Đảng Hồi giáo Liên Malaysia có được xâm nhập nhỏ, song Đảng Hành động Dân chủ và Gerakan lật đổ quyền lực của Liên minh tại ba bang, và gần như tiệt trừ đa số hai phần ba truyền thống của Liên minh trong Quốc hội. Một phần lớn kết quả này bắt nguồn từ tổn thất của Công hội người Hoa Malaysia, đảng này ngay sau đó tuyên bố rằng họ sẽ không tham gia trong chính phủ mới sau bầu cử, do Công hội người Hoa Malaysia không còn được ủy thác đại diện cho lợi ích của người Hoa trong chính phủ. Các cuộc tập hợp có tổ chức nhằm mừng thắng lợi của Đảng Hành động Dân chủ và Gerakan được diễn ra tại thủ đô Kuala Lumpur vào ngày 11 và 12 tháng 5, những người tham dự chế nhạo những người Mã Lai và mang những khẩu hiệu như "Semua Melayu kasi habis" ("Kết liễu toàn bộ bọn Mã Lai"). Một lời xin lỗi nhanh chóng được đưa ra sau các cuộc tập hợp. Tuy vậy, những người Mã Lai bị kích động trách mắng cử tri người Hoa vì phản bội "công thức Liên minh bằng cách bỏ phiếu cho một đảng đối lập, làm hồi sinh các vấn đề cơ bản về ngôn ngữ và quyền lợi đặc thù của người Mã Lai".

Những người cực đoan Mã Lai hoan nghênh động thái của Công hội người Hoa Malaysia, họ cảm thấy chính phủ do Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất và người Mã Lai chi phối sẽ đáp ứng tốt hơn các mục tiêu của họ. Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất tổ chức các tập hợp riêng của mình, song nó nhanh chóng biến thành một cuộc náo loạn, vào ngày 13 tháng 5. Sự kiện này sau đó được đặt tên là "Sự kiện 13 tháng 5". Những người ủng hộ Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất tập hợp tại nhà của Harun vào tối ngày 13 tháng 5, nơi cuộc tập hợp bắt đầu theo kế hoạch, nhiều người trong số họ khua dao và các vũ khí khác. Một số nhà lãnh đạo chỉ trích "những lời lăng mạ" của "những kẻ ngoại đạo" trong các cuộc diễu hành mừng thắng lợi trước đó, kêu gọi phản tập hợp "để dạy cho người Hoa một bài học" về việc thách thức quyền tối cao của người Mã Lai. Ngay sau đó, đám đông bắt đầu tấn công những lái xe ô tô là người Hoa, và phát động các cuộc tấn công đốt phá nhằm vào nhà ở và cửa hàng của người Hoa. Náo loạn lan rộng, bất chấp việc quân đội được triệu đến, và tiếp diễn trong hai ngày khác.

Như một kết quả của các vụ náo loạn, Quốc hội bị đình chỉ, và một tình trạng khẩn cấp được tuyên bố. Một Hội đồng Hành động Quốc gia (NOC) được thành lập nhằm giám sát quản lý quốc gia dưới tình trạng khẩn cấp. Mặc dù náo loạn sớm kết thúc, song căng thẳng tiếp tục nhen nhóm. Một cuộc tẩy chay của cộng đồng phi Mã Lai đối với các hàng hóa và dịch vụ của người Mã Lai nhận được sự ủng hộ "gần như hoàn toàn", trong khi nhiều người Mã Lai như Mahathir Mohamad và Raja Muktaruddin Daim bắt đầu kêu gọi về một chế độ chuyên quyền chỉ do Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất lãnh đạo, và loại bỏ Tunku Abdul Rahman. Theo một số nguồn, một nhóm phần tử cực đoan chủng tộc, gồm có Syed Nasir Ismail, Musa Hitam, và Tengku Razaleigh, cảm thấy rằng Hiến pháp chia sẻ quyền lực đã thất bại, và tán thành việc quốc gia được "trở lại" với người Mã Lai. Họ được cho là tán thành việc triệu tập Mahathir Mohamad đến Kula Lumpur, tại đây nhân vật này lãnh đạo chiến dịch chống Tunku Abdul Rahman của mình.

Mahathir Mohamad viết một thư ngỏ đến Tunku Abdul Rahman, cáo buộc ông "trao cho người Hoa thứ mà họ yêu cầu... ông trao cho họ quá nhiều phương diện." Ngay sau đó, các sinh viên trên toàn quốc bắt đầu tổ chức các cuộc tuần hành lớn, kêu gọi Tunku Abdul Rahman từ chức và ủng hộ một lãnh đạo sẽ khôi phục "quyền tối cao Mã Lai". Bạo động lẻ tẻ nổ ra, được cho là do các địch thủ của Tunku Abdul Rahman xúi giục.

Thay vì nhượng bộ các yêu cầu của họ, Tunku Abdul Rahman trục xuất Mahathir Mohamad và Musa Hitam khỏi Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất. Bộ trưởng Nội vụ Ismail Abdul Rahman cho rằng "Những kẻ cực đoan chủng tộc này tin vào một thuyết hoang dại và không tưởng về quyền thống trị tuyệt đối của một sắc tộc đối với các cộng đồng khác, bất chấp Hiến pháp.... Tình trạng phân hóa diễn ra trong chính trị Malaysia và những kẻ phân biệt chủng tộc cực độ trong đảng cầm quyền tiến hành một nỗ lực tuyệt vọng nhằm lật đổ hàng ngũ lãnh đạo hiện nay."

Khốn cảnh người Mã Lai và Chính sách Kinh tế Mới

Mahathir Mohamad dành thời gian lưu vong chính trị của mình để viết The Malay Dilemma (Khốn cảnh người Mã Lai), trong đó ông tranh luận "rằng người Mã Lai là cư dân nguyên trú hoặc bản địa của Malaya và là dân tộc duy nhất có thể tuyên bố Malaya là quốc gia duy nhất của họ. Căn cứ phương thức thực tiễn được thi hành trên khắp thế giới, điều này trao cho người Mã Lai các quyền bất khả xâm phạm nhất định về các hình thức và nghĩa vụ của quyền công dân..." (đề cập đến khế ước xã hội.)

Mahathir Mohamad bày tỏ bất mãn với "quá nhiều công dân phi Mã Lai, họ có thể lấn át người Mã Lai" khi "...đột nhiên nhận ra rằng anh ta thậm chí không thể gọi Malaya là lãnh thổ của mình. Không tồn tại Tanah Melayu — lãnh thổ của người Mã Lai nào khác. Anh ta nay là một cá nhân khác, một người Malaysia, song một quyền uy mà người Mã Lai Malaysia sở hữu tại Malaya — lãnh thổ của họ — nay không chỉ phân hưởng với những người khác, mà còn phân hưởng bất công. Và nếu điều này chưa đủ, anh ta bị yêu cầu phải từ bỏ ngày càng nhiều lực ảnh hưởng." Biện hộ của Mahathir Mohamad đối với quyền lợi Mã Lai đều tập trung vào cách lý luận "dân tộc quyết định" và tranh luận ủng hộ đãi ngộ ưu đãi. Một thời gian ngắn sau khi trở thành Thủ tướng, Mahathir Mohamad phủ nhận mình thay đổi bất kỳ quan điểm nào từ khi viết cuốn sách.

Mahathir Mohamad và Musa Hitam sau đó tái gia nhập Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất và chính phủ dưới quyền thủ tướng thứ nhì là Tun Abdul Razak, nhân vật này thi hành Chính sách Kinh tế Mới (NEP) dựa trên một số cải cách mà trong sách của Mahathir Mohamad tán thành. Mục tiêu được công bố của NEP là loại trừ "sự đồng nhất sắc tộc với chức năng kinh tế". Nhằm phục vụ mục đích này, NEP đặt mục tiêu "Bumiputra" (người Mã Lai và các dân tộc nguyên trú khác) đóng góp 30% kinh tế vào năm 1990. Điều này được gọi là "giải pháp 30 phần trăm", đặt ra "hạn ngạch Bumiputra" trên nhiều lĩnh vực, bao gồm phát hành mới cổ phần công khai trên thị trường và kế hoạch nhà ở cá nhân mới. Một vài nhà bình luận cho rằng điều này nuôi dưỡng "một thái độ gần như 'tổng bằng không', chủ yếu là giữa người Mã Lai và người Hoa". Tuy nhiên, mục tiêu được công bố của NEP không phải là trực tiếp tái phân phối của cải mà là mở rộng chiếc bánh kinh tế trong khi cung cấp một tỷ lệ đóng góp lớn hơn dành cho người Mã Lai, do đó gia tăng sự tham gia của toàn bộ cư dân trong kinh tế.

Nhân tố chính của NEP như được đề ra trong Kế hoạch Malaysia thứ nhì là nhằm giải quyết "thiếu cân bằng kinh tế" giữa người Hoa và người Mã Lai. Năm 1969, tỷ lệ cổ phần của người Mã Lai theo tường thuật là ở mức 1,5% trong khi người Hoa nắm giữ 22,8%; phần còn lại phần lớn nhằm trong tay ngoại quốc. Một số lời dèm pha cho rằng tỷ lệ đóng góp của người Hoa trong kinh tế làm tăng chi phí của người Mã Lai, song tốc độ tăng trưởng sự bất bình đẳng diễn ra đáng kể hơn giữa những người Mã Lai giàu nhất và nghèo nhất — từ năm 1957 đến năm 1970, tỷ lệ đóng góp của 20% người Mã Lai giàu nhất trong đóng góp kinh tế chung của người Mã Lai tăng từ 42,5% lên 52,5%, trong khi 40% nghèo nhất giảm từ 19,5% xuống 12,7%.

NOC ban hành một báo cáo gồm các phân tích của mình về căn nguyên của sự kiện bạo lực 13 tháng 5, cho thấy rằng ngay cả trong dịch vụ công, một lĩnh vực về truyền thống là do người Mã Lai chiếm ưu thế, số người phi Mã Lai đông hơn số người Mã Lai tại nhiều khu vực, đa số Mã Lai đáng kể chỉ trong Cảnh sát và Quân đội. Báo cáo kết luận: "Những luận điệu rằng các dân tộc phi Mã Lai bị loại trừ được người Mã Lai cho là cố ý xuyên tạc. Người Mã Lai là những người cảm thấy bị loại trừ trong sinh hoạt kinh tế quốc dân, nay bắt đầu cảm thấy một sự đe dọa đối với vị thế của họ trong dịch vụ công. Các chính trị gia phi Mã Lai chưa từng đề cập đến thái độ gần như đóng cửa với người Mã Lai của những người phi Mã Lai trong phần lớn các lĩnh vực trong khu vực tư nhân tại quốc gia này."

Theo Kế hoạch Malaysia thứ hai, NEP nhằm mục đích "thiết lập một cộng đồng công thương Mã Lai" thông qua "các doanh nghiệp toàn sở hữu hoặc liên doanh". Trước đó, theo lời một nhà kinh tế địa phương, chính phủ đóng vai trò "hành chính, khuyến khích, và điều tiết" trong nỗ lực giải quyết mất cân bằng kinh tế, song tránh "thể hiện trực tiếp và tích cực xúc tiến" các lợi ích của người Mã Lai. Bây giờ, chính phủ sẽ không chỉ "[hạn chế] tiếp cận của cư dân người Hoa và người Ấn với các đại học, công việc công cộng và tài sản công cộng," mà còn tích cực can thiệp vào kinh tế nhằm trao cho "[Bumiputra] mảnh lớn hơn trong hoạt động kinh doanh". Một chỉ trích về sự gia tăng can thiệp này là Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất được cho là "trở thành một thế lực thụ hưởng chính khi mở rộng vai trò của nhà nước".

Có nhiều chương trình đãi ngộ ưu đãi hạn chế được thi hành trước đây. Tuy nhiên, chúng chủ yếu tập trung vào dịch vụ công, theo Điều 153 trong Hiến pháp. Nhập học trong giáo dục bậc đại học phần lớn dựa trên năng lực. Chính phủ Tunku Abdul Rahman ưu tiên các chính sách tư do kinh doanh, giảm đến mức tối thiểu can thiệp kinh tế.

Mặc dù NEP là nhằm mục đích giải quyết mất cân bằng kinh tế, song nó nhanh chóng liên kết với ketuanan Melayu. Mặc dù hai khái niệm hiếm khi được đánh đồng trực tiếp, song chúng thường được đề cập đến cùng nhau, với ngụ ý rằng NEP được bắt nguồn từ ketuanan Melayu. Sự can thiệp lớn hơn của NEP vào kinh tế khiến một số người "đánh đồng hình tượng nhất thể của Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất trong vai trò chiến sĩ không thể tranh nghị cho quyền tối cao của người Mã Lai với năng lực ứng phó của đảng với giao dịch thương nghiệp sinh lợi."

Tu chính hiến pháp và các thay đổi chính sách khác

thumb|Quốc hội thông qua một số tu chính Hiến pháp ngay sau sự kiện 13 tháng 5, giới hạn tự do ngôn luận và "vi phạm" các điều khoản nhất định liên quan đến quyền lợi đặc thù của [[Bumiputra.]]

Quốc hội cuối cùng được tái triệu tập vào năm 1971. Mặc dù NEP được thông qua mà không được Quốc hội phê chuẩn, song muốn sửa đổi Hiến pháp thì cần phải được Quốc hội tán thành. Đạo luật hiến pháp (Sửa đổi) 1971 do chính phủ trình lên, cùng với một số sửa đổi trong Đạo luật Khích động nổi loạn, hạn chế tự do ngôn luận trong "các vấn đề nhạy cảm" như ngôn ngữ quốc gia, quyền lợi

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Ketuanan Melayu_** (nghĩa là "bá quyền của người Mã Lai") là một khái niệm chính trị nhấn mạnh tính ưu việt của người Mã Lai tại Malaysia hiện nay. Người Mã Lai tại Malaysia yêu
**Biến cố 13 tháng 5 năm 1969** nhắc đến bạo lực bè phái giữa người Mã Lai và người Hoa tại Kuala Lumpur (đương thời thuộc bang Selangor), Malaysia. Náo loạn nổ ra sau khi
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành