✨Karel Čapek

Karel Čapek

Karel Čapek (; 9 tháng 1 năm 1890 – 25 tháng 12 năm 1938) là nhà văn người Séc lừng danh đầu thế kỷ XX. Ông là người đa tài trong nhiều lĩnh vực như nhà viết kịch, nhà soạn kịch, nhà viết tiểu luận, nhà xuất bản, nhà phê bình văn học, nhiếp ảnh gia và nhà phê bình nghệ thuật. Tuy vậy, ông nổi tiếng nhiều nhất là nhờ mảng văn chương khoa học viễn tưởng gồm cuốn tiểu thuyết Khi loài vật lên ngôi và vở kịch R.U.R. (Các Robot Toàn năng của Rossum), lần đầu tiên giới thiệu từ robot. Ông cũng viết nhiều tác phẩm mang tính chính trị liên quan đến những xáo trộn xã hội trong thời đại mình. Phần lớn đều chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tự do thực dụng kiểu Mỹ, ông ra sức vận động ủng hộ tự do ngôn luận và khinh miệt hoàn toàn sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu.

Čapek từng được đề cử bảy lần cho Giải Nobel Văn học, nhưng ông chưa bao giờ thắng cử. Tuy nhiên, một số giải thưởng được đặt theo tên của ông, như giải thưởng Karel Čapek, được Câu lạc bộ PEN của Séc trao thưởng hằng năm cho tác phẩm văn học góp phần tăng cường hoặc duy trì các giá trị dân chủ và nhân văn trong xã hội. Ông cũng là một nhân vật quan trọng trong việc thành lập Câu lạc bộ PEN Tiệp Khắc như là một phần của PEN Quốc tế. Ông đã chết trong Thế Chiến II do hậu quả của bệnh tật suốt đời, nhưng di sản của ông như là một nhân vật văn học đã được gầy dựng khá tốt sau chiến tranh. Antonín là một người rất năng động; ngoài công việc của một bác sĩ, ông cũng đồng tài trợ cho bảo tàng địa phương và là thành viên của hội đồng thành phố. Dù phản đối quan điểm duy vật và thực chứng của phụ thân, Karel Čapek vẫn yêu mến và ngưỡng mộ cha mình, sau này gọi ông là "một tấm gương điển hình... của thế hệ thức tỉnh tinh thần dân tộc." Mẹ của Karel, Božena Čapková, là một người nội trợ mẫu mực. Chị gái ông, Helena, là một nghệ sĩ piano tài ba, nhưng sau này trở thành một nhà văn và xuất bản nhiều cuốn hồi ký về Karel và Josef.

Sau khi học xong bậc tiểu học ở Úpice, ông chuyển đến Hradec Králové cùng với bà ngoại, tại đây ông tiếp tục học lên trung học nhưng sau hai năm thì bị đuổi học vì tham gia vào một câu lạc bộ sinh viên bất hợp pháp. Sau vụ đó, ông dọn sang Brno cùng với chị gái và cố gắng tốt nghiệp trung học ở đó, nhưng sau hai năm nữa lại dời đến Praha hoàn thành bậc trung học tại trường Academic Grammar School vào năm 1909. Trong suốt những năm thiếu niên Čapek bỗng trở nên say mê với nghệ thuật thị giác, đặc biệt là trường phái Lập thể, đã ảnh hưởng đến các tác phẩm sau này của ông. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học triết học và thẩm mỹ học tại thủ đô Praha ở Đại học Charles, nhưng ông cũng dành thời gian ở Đại học Friedrich Wilhelm ở Berlin và tại Sorbonne ở Paris. Trong thời gian là sinh viên đại học, ông đã viết nên một số tác phẩm về nghệ thuật và văn học đương đại. Ông lấy bằng tiến sĩ vào năm 1915.

Thế Chiến I và giai đoạn giữa hai cuộc chiến

Được miễn nghĩa vụ quân sự do các vấn đề tủy sống có thể ám ảnh ông suốt cả cuộc đời, Čapek quan sát Thế chiến I từ Praha. Quan điểm chính trị của ông bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chiến tranh, và như một nhà báo nảy nở tài năng, ông bắt đầu viết về các chủ đề như chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa tiêu thụ. Thông qua các đoàn thể xã hội, nhà văn trẻ đã có mối quan hệ gần gũi với nhiều nhà lãnh đạo chính trị của quốc gia Tiệp Khắc mới nổi, bao gồm Tomáš Garrigue Masaryk, nhà yêu nước Tiệp Khắc và là Tổng thống Tiệp Khắc đầu tiên, và con trai của ông Jan, về sau trở thành ngoại trưởng. T. G. Masaryk từng là khách mời thường xuyên trong các bữa tiệc ngoài trời "Người đàn ông thứ Sáu" (tiếng Séc: Pátečníci) của Čapek dành cho các trí thức hàng đầu của Séc. Čapek còn là thành viên của mạng lưới chính trị Hrad của Masaryk. Những buổi trò chuyện thường xuyên của họ về các chủ đề khác nhau sau này đã đóng vai trò như là cơ sở cho Cuộc đối thoại với T. G. Masaryk của Čapek. right|thumb|Mộ của Karel Čapek và Olga Scheinpflugová tại nghĩa trang Vyšehrad Čapek bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình như một nhà báo. Nhờ có Josef, ông vào làm biên tập viên cho tờ Národní listy (Báo Quốc gia) của Séc từ tháng 10 năm 1917 đến tháng 4 năm 1921. Khi rời khỏi, ông và Josef đã gia nhập đội ngũ nhân viên của tờ Lidové noviny (Báo Nhân dân) vào tháng 4 năm 1921.

Những cố gắng đầu tiên của Čapek về tiểu thuyết chủ yếu là truyện ngắn và kịch viết chung với anh trai Josef của ông. Thành công quốc tế đầu tiên của Čapek chính là vở kịch R.U.R., một tác phẩm dystopia (phản-không tưởng) về một ngày tồi tệ tại một nhà máy chứa những con android có tri giác. Vở kịch này đã được dịch sang tiếng Anh vào năm 1922, và đã được trình diễn ở Anh và Mỹ vào năm 1923. Trong suốt những năm 1920, Čapek sáng tác nhiều thể loại, cả tiểu thuyết lẫn dòng văn chương phi hư cấu, nhưng chủ yếu hoạt động trong vai trò là một nhà báo. Trong khi sửa chữa thiệt hại do lũ lụt gây ra cho ngôi nhà mùa hè của gia đình ở Stará Huť, ông bị cảm lạnh. Riêng Josef thì bị bắt vào tháng 9 và cuối cùng chết tại trại tập trung Bergen-Belsen vào tháng 4 năm 1945. Karel Čapek và vợ của ông được chôn cất tại nghĩa trang Vyšehrad ở Praha. Dòng chữ viết trên bia mộ ghi: "Nơi đây chôn cất Josef Čapek, họa sĩ và nhà thơ. Đời đời nhớ ơn." Čapek nổi tiếng nhờ tác phẩm tuyệt vời của mình được viết bằng tiếng Séc. Người ta biết đến ông với tư cách là một nhà văn khoa học viễn tưởng, đã sáng tác trước khi khoa học viễn tưởng trở nên được công nhận rộng rãi như một thể loại riêng biệt. Nhiều tác phẩm của ông cũng thảo luận các khía cạnh đạo đức của những sáng chế và quy trình công nghiệp đã được dự đoán trong nửa đầu của thế kỷ XX. Chúng bao gồm sản xuất hàng loạt, vũ khí hạt nhân và thực thể trí tuệ nhân tạo như robot hay android. Những năm hoạt động hiệu quả nhất của ông là dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Tiệp Khắc (1918–1938).

Čapek cũng bày tỏ sự quan ngại về thiên tai xã hội, chế độ độc tài, bạo lực, sự ngu dốt của con người, quyền lực không giới hạn của các tập đoàn, và lòng tham không đáy. Ông cố gắng tìm kiếm niềm hy vọng và lối ra cho những vấn đề nhức nhối nêu trên. Từ những năm 1930 trở lại đây, tác phẩm của Čapek ngày càng trở nên có khuynh hướng chống chủ nghĩa phát xít, chống quân phiệt, và chỉ trích những gì ông coi là "chủ nghĩa phi lý".

Ivan Klíma trong quyển tiểu sử viết về Čapek, ghi nhận ảnh hưởng của ông về văn học Séc hiện đại, cũng như sự phát triển của tiếng Séc như một ngôn ngữ viết. Čapek, cùng với những người đương thời như Jaroslav Hašek, đã sinh ra một phần của sự phục hưng hồi đầu thế kỷ XX viết bằng tiếng Séc nhờ quyết định sử dụng ngôn ngữ địa phương. Klíma viết, "Đó là nhờ Čapek mà việc sáng tác bằng tiếng Séc đã phát triển gần gũi hơn với ngôn ngữ mà người ta thực sự nói". Những tác phẩm quan trọng nhất của ông cố gắng giải quyết các vấn đề về nhận thức luận, để trả lời câu hỏi: "Kiến thức là gì?" Các ví dụ bao gồm Tales from Two Pockets, và cuốn sách đầu tiên của bộ ba tác phẩm tiểu thuyết Hordubal, Meteor,An Ordinary Life. Ông cũng đồng sáng tác (với anh trai Josef) lời nhạc kịch cho vở opera Lásky hra osudná của Zdeněk Folprecht vào năm 1922.

Sau Thế Chiến II, tác phẩm của Čapek chỉ được chính phủ Cộng sản Tiệp Khắc miễn cưỡng chấp nhận, bởi vì trong suốt cuộc đời ông đã từ chối chấp nhận chủ nghĩa cộng sản như là một sự thay thế khả thi. Ông là người đầu tiên trong đội ngũ trí thức không Marxist có ảnh hưởng, đã viết một bài báo trong loạt bài "Tại sao tôi không phải là một người cộng sản".

Vào năm 2009 (70 năm sau khi ông qua đời), một cuốn sách được xuất bản gồm nhiều thư từ của Karel Čapek thảo luận về các vấn đề hòa bình và sự phản đối tận tâm nghĩa vụ quân sự của ông với luật sư Jindřich Groag đến từ Brno. Cho đến lúc đó, chỉ có một phần của những lá thư này mới được biết đến.

Arthur Miller đã viết vào năm 1990:

Lần đầu tiên tôi đọc Karel Čapek khi tôi còn là một sinh viên đại học từ những năm ba mươi. Không có nhà văn nào như ông ấy...lời quả quyết mang tính tiên tri với độ hài hước siêu thực và giọng văn châm biếm xã hội cứng rắn: một sự kết hợp độc đáo...được đọc tác phẩm của ông là một thú vui.

Tuy thường được xếp cùng các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, nhưng Karel Čapek lại có quan điểm khác về văn nghiệp của mình:

Đây không phải là viễn tưởng, mà là hiện thực. Đây không phải là suy đoán về những gì trong tương lai, mà là tấm gương phản chiếu cái đang tồn tại và chúng ta đang sống chung với nó.

Nguồn gốc của từ robot

right|thumb|Áp phích vở kịch R.U.R., 1939 Karel Čapek đã giới thiệu và phổ biến việc sử dụng thường xuyên từ robot trên quốc tế, lần đầu tiên xuất hiện trong vở kịch R.U.R. vào năm 1920. Trong khi người ta thường nghĩ rằng ông chính là người khởi xướng từ này, Karel đã viết một lá thư ngắn liên quan đến một bài viết trong từ nguyên học của bộ Từ điển Anh ngữ Oxford quy cho người anh trai, họa sĩ và nhà văn Josef Čapek, mới là nhà phát minh thực sự của từ này. Trong một bài viết trên nhật báo Séc Lidové noviny năm 1933, ông cũng giải thích rằng ban đầu ông muốn gọi chủng loài này là laboři (từ labor trong tiếng Latinh có nghĩa là lao động). Tuy nhiên, ông lại không thích từ này vì trông nó quá nhân tạo, và đi tìm lời khuyên từ anh trai Josef, là người đã đề xuất ra từ roboti (robots trong tiếng Anh).

Từ robot bắt nguồn từ chữ robota. Robota nghĩa đen là "lao động khổ sai" và theo nghĩa bóng "lao dịch" hoặc "công việc cực nhọc" trong tiếng Séc. Nó cũng có nghĩa là "công việc", "lao động" trong tiếng Slovak, tiếng Séc cổ, và nhiều ngôn ngữ Slav khác (ví dụ tiếng Bulgaria, Nga, Serbia, Ba Lan, Macedonia, Ucraina, v.v...). Nó bắt nguồn từ chữ tiền Slav *robota được tái tạo, có nghĩa là "công việc (nô lệ)." (Xem từ công việc trong tiếng Đức, Arbeit.)

Khái quát về các tác phẩm của Čapek

Kịch

  • 1920 – Tên cướp (Loupežník)
  • 1920 – R.U.R. viết tắt của Các Robot Toàn năng của Rossum (Rossumovi univerzální roboti) – vở kịch này được xem là một trong những ví dụ đầu tiên của chủng loài giống như người nhân tạo trong nghệ thuật và văn học.
  • 1921 – Chân dung cuộc đời của loài côn trùng (Ze života hmyzu), còn gọi là Kịch Côn trùng hoặc Đời Côn trùng, với Josef Čapek, một trò châm biếm về loài côn trùng mang nhiều đặc tính khác nhau của con người: bướm tự mãn, nhẹ dạ, bọ cánh cứng tư lợi, khúm núm.
  • 1922 – Vụ Makropulos (Věc Makropulos) – vở kịch nói về sự bất tử của con người, không hẳn là từ quan điểm khoa học viễn tưởng. Vở opera lừng danh của Leoš Janáček là dựa trên ý tưởng của kịch phẩm này.
  • 1927 – Adam Đấng Tạo hóa (Adam stvořitel) – Người anh hùng như tên gọi cố gắng tiêu diệt thế giới và thay thế nó bằng một cái tốt hơn.
  • Những câu chuyện ngộ nghĩnh (Kniha apokryfů, 1932, tái bản 1945) – những câu chuyện ngắn về các nhân vật văn chương và lịch sử, như Hamlet, một nhà viết kịch sống chật vật, Pontius Pilate, Don Juan, Alexander đang tranh cãi với thầy dạy của mình Aristotle, cùng Sarah và Abraham cố gắng gọi tên mười người tốt để Sodom có thể được cứu rỗi: "Bạn chống Namuel làm cái gì? Anh ta tuy ngu ngốc nhưng lại là người sùng đạo."
  • Chín câu chuyện cổ tích: Và một cú ném khác nữa để có được kích cỡ tốt đẹp (Devatero Pohádek a ještě jedna od Josefa Čapka jako přívažek, 1932) – một bộ tuyển tập các câu chuyện cổ tích, hướng đến đối tượng trẻ em.
  • Dashenka, hay Cuộc đời của Cún (Dášeňka čili Život štěněte, 1933)
  • Áo sơ mi (truyện ngắn)

Du ký

Những lá thư từ Ý (Italské listy, 1923) Những lá thư từ Anh (Anglické listy, 1924) Những lá thư từ Tây Ban Nha (Výlet do Španěl, 1930) Những lá thư từ Hà Lan (Obrázky z Holandska, 1932) *Chuyến du hành phương Bắc (Cesta na Sever, 1936)

Tác phẩm chọn lọc

  • The Absolute at Large, 1922 (tiếng Séc), 1927, The Macmillan Company, New York, translator uncredited. Also published June 1975, Garland Publishing ,
  • [https://books.google.com/books?id=kZD5ZeKILtwC Apocryphal Tales], 1945 (tiếng Séc), May 1997, Catbird Press Paperback , Translated by Norma Comrada
  • An Atomic Phantasy: Krakatit or simply Krakatit, 1924 (tiếng Séc)
  • Believe in People: the essential Karel Čapek: previously untranslated journalism and letters 2010. Faber and Faber, . Selected and translated with an introduction by Šárka Tobrmanová-Kühnová; preface by John Carey.
  • The Cheat. Allen and Unwin, 1941.
  • Cross Roads, 2002, Catbird Press, cloth; 0-945774-54-0 trade paperback. Translation by Norma Comrada of "Boží muka" (1917) and "Trapné povídky" (1921).
  • I Had a Dog and a Cat. Allen & Unwin, 1940.
  • Nine Fairy Tales: And One More Thrown in for Good Measure, October 1996, Northwestern Univ Press Paperback Reissue Edition, . Illustrated by Josef Capek, Translated by Dagmar Herrmann
  • R.U.R, March 1970, Pocket Books
  • Tales from Two Pockets 1928-9 (tiếng Séc), 1994, Catbird Press Paperback, . Translation by Norma Comrada.
  • Talks With T. G. Masaryk Phi hư cấu. Tiểu sử T. G. Masaryk, người sáng lập Tiệp Khắc.
  • Three Novels: Hordubal, Meteor, An Ordinary Life, 1933–34, Translated by M. and R. Weatherall, 1990, Catbird Press
  • Toward the Radical Center: A Karel Capek Reader. Collection of stories, plays and columns. Edited by Peter Kussi, Catbird Press
  • War with the Newts 1936 (tiếng Séc), May 1967, Berkley Medallion Edition Paperback. Translated by M. & R. Weatherall, March 1990, Catbird Press paperback, , October 1996, Northwestern University Press paperback . Another English translation by Ewald Osers
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karel Čapek** (; 9 tháng 1 năm 1890 – 25 tháng 12 năm 1938) là nhà văn người Séc lừng danh đầu thế kỷ XX. Ông là người đa tài trong nhiều lĩnh vực như nhà
thumb|Ảnh chụp Josef Čapek **Josef Čapek** (; 23 tháng 3 năm 1887 – Tháng 4, 1945) là một nghệ sỹ người Séc là một họa sĩ lừng danh, nhưng cũng được biết đến như là
thumb|right|Tượng của hai anh em ở Malé Svatoňovice **Anh em Čapek** là Josef và Karel Čapek, cặp đôi nhà văn người Séc đôi khi viết chung với nhau. Họ được tưởng nhớ cả về tác
thumbnail|Olga Scheinpflugová vào thập niên 1930; bức ảnh do chính Karel Čapek chụp **Olga Scheinpflugová** (3 tháng 12, 1902 – 13 tháng 4, 1968) là nữ diễn viên và nhà văn người Séc. Bà là
**Helena Čapková** (28 tháng 1, 1886 Hronov – 27 tháng 11, 1961 Praha), là một nhà văn người Séc, chị của Karel Čapek và Josef Čapek. Bà được biết đến là tác giả quyển hồi
**Nhà hát ở Cộng hòa Séc** có một truyền thống phong phú ở tất cả các thể loại, như chính kịch, opera, và nhảy, nhà hát múa rối, nhà hát black light... ## Lịch sử
nhỏ|phải| Hệ thống [[Shadow Hand|cánh tay robot Shadow]] **Robot học** (tiếng Anh: **_Robotics_**) là một ngành kỹ thuật bao gồm thiết kế, chế tạo, vận hành, và ứng dụng robot, cũng như các hệ thống
**Trường phái lập thể của Séc**, hay **Chủ nghĩa lập thể Séc** (được gọi chung là **Cubo-Expressionism**) trào lưu nghệ thuật avant-garde của những người Séc ủng hộ trường phái Lập thể, hoạt động chủ
Đài tưởng niệm Masaryk ở [[Praha.]] **Tomáš Garrigue Masaryk** (), (phiên âm tiếng Việt: Thô-mát Ga-ri-gu Ma-xa-rít) đôi khi cũng gọi là **Thomas Masaryk** trong tiếng Anh, (7.3.1850 – 14.9.1937) là chính trị gia, nhà
nhỏ|Jaromír Hanzlík năm 2019 **Jaromír Hanzlík** (sinh ngày 16 tháng 2 năm 1948 tại Český Těšín) là một diễn viên hoạt động trong lĩnh vực sân khấu, điện ảnh và truyền hình Tiệp Khắc (trước
nhỏ|phải|[[ASIMO (2000) Triển lãm Expo 2005, mang hình dạng giống con người nên đôi khi nó cũng được gọi là "người máy ASIMO"]] nhỏ|phải|[https://en.m.wikipedia.org/wiki/Sophia_(robot) Sophia], [[Android (robot)|robot hình người nữ được phát triển bởi công
Machinarium là một trò chơi phiêu lưu point-and-click được phát triển bởi Amanita Design. Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 10 năm 2009 cho Microsoft Windows, OS X, Linux, vào ngày 8 tháng
Lịch sử robot trải dài từ thần thoại cổ đại đến các cỗ máy thông minh hiện đại phục vụ đời sống và sản xuất. Qua mỗi giai đoạn, robot ngày càng tiến hóa, trở
**Trí tuệ nhân tạo** (**TTNT**) (tiếng Anh: **_Artificial intelligence_**, viết tắt: **_AI_**) là khả năng của các hệ thống máy tính thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến trí thông minh của con người,
**Spencer Tracy** (5 tháng 4 năm 1900 – 10 tháng 6 năm 1967) là một diễn viên điện ảnh Mỹ. Trong sự nghiệp kéo dài hơn 30 năm từ 1930 đến 1967 ông đã tham
**Vyšehrad** () là một pháo đài lịch sử nằm ở thành phố Praha, Cộng hòa Séc. Nó được xây dựng, có thể là trong thế kỷ thứ 10, trên một ngọn đồi bên sông Vltava.
**Phongxiô Philatô** hay **Bôn-xơ Phi-lát** (; , _Pontios Pīlātos_) là tổng trấn thứ năm của tỉnh La Mã Judaea từ năm 26 tới năm 36 sau Công nguyên dưới thời hoàng đế Tiberius, và nổi
**Đurica Jurica Ribar** (Đakovo, 26 tháng 3 năm 1918 - Trebaljevo, gần Kolašin, 3 tháng 10 năm 1943) là một luật sư, họa sĩ, nhà cách mạng và tham gia Chiến tranh nhân dân giải
**Mạnh Linh** (6 tháng 4 năm 1929 – ?) là một nghệ sĩ sân khấu, diễn viên điện ảnh, nguyên Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam. Ông đã được nhà nước Liên Xô trao
**Tại sao tôi không phải là người Kitô** () là bài nói chuyện của triết gia, nhà toán học, và người được giải Nobel Bertrand Russell với hội viên Hội Tranh Đấu đòi quyền tự
thumb|Paweł Hulka-Laskowski **Paweł Hulka-Laskowski** (sinh ngày 25 tháng 6 năm 1881 – mất ngày 29 tháng 10 năm 1946) là một nhà văn, dịch giả, nhà báo và nhà công tác xã hội người Ba
**Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia Praha** (tiếng Anh: _National Gallery Prague_, tiếng Séc: _Národní galerie Praha_, viết tắt là **NGP**), trước đây còn gọi là **Phòng trưng bày Quốc gia ở Praha** (_Národní