✨Kanak

Kanak

Kanak (chính tả tiếng Pháp là Canaque trước 1984) là các cư dân Melanesia bản địa tại Nouvelle-Calédonie, một tập thể hải ngoại của Pháp tại vùng tây nam Thái Bình Dương. Theo điều tra nhân khẩu năm 2009, họ chiếm 40,3% tổng dân số Nouvelle-Calédonie, với 99.078 người. Mặc dù người Melanesia được ghi nhận đã định cư trên bán đảo Presqu'île de Foué từ thời văn hoá Lapita (1600 TCN-500 TCN), song nguồn gốc của người Kanak chưa được biết rõ. Nghiên cứu dân tộc học chỉ ra rằng các thủy thủ Polynesia đã kết hôn với người Kanak trong nhiều thế kỷ..

Nouvelle-Calédonie được sáp nhập vào Pháp trong năm 1853, và trở thành một lãnh thổ hải ngoại của Pháp vào năm 1956. Một phong trào độc lập dẫn đến một cuộc khởi nghĩa bất thành vào năm 1967, và khởi nghĩa tái phát vào năm 1984, mưu cầu độc lập hoàn toàn khỏi quyền cai trị của Pháp. Các hiệp định Matignon 1988 được ký kết giữa đại biểu của Pháp và Nouvelle-Calédonie để quyết định về tổ chức trưng cầu dân ý về độc lập.

Mặc dù các đồ gốm Lapita cổ đại có niên đại từ 1500 TCN, và cư dân trên đảo từ xưa đã tham gia vào mỹ thuật, song kể từ khi lập ra Cơ quan phát triển văn hoá Kanak, mỹ thuật và nghề thủ công Kanak trở nên phổ biến hơn tại Nouvelle-Calédonie. Nghệ thuật chạm khắc gỗ tạo hình diều hâu, thần thánh cổ đại, rắn và rùa cũng phổ biến, chẳng hạn như flèche faîtière, một nghệ thuật chạm khắc tạo ra sản phẩm giống với một cột vật tổ nhỏ có hình dạng mang tính biểu trưng. Âm nhạc, vũ đạo và ca hát là bộ phận trong nghi lễ Kanak, và vũ đạo được trình diễn trong các buổi tụ tập Kanak truyền thống với mục đích củng cố các mối quan hệ trong thị tộc và với tổ tiên.

Từ nguyên

Từ 'Kanak' bắt nguồn từ kanaka maoli, là một từ tiếng Hawaii từng một thời bị các nhà thám hiểm, thương nhân và nhà truyền giáo châu Âu tại châu Đại Dương gắn ghép bừa bãi cho bất kỳ dân đảo Thái Bình Dương nào không phải gốc Âu. Trước khi tiếp xúc với người châu Âu, không có các nhà nước thống nhất tại Nouvelle-Calédonie, và không có tên tự gọi duy nhất nào được sử dụng để chỉ cư dân trên đảo. Các từ khác được tạo ra từ Kanak trong vài thế hệ qua: Kanaky là một tên dân tộc-chính trị cho đảo hoặc toàn bộ lãnh thổ. Kanéka là một thể loại âm nhạc gắn bó với người Kanak, về phong cách thì là một dạng của reggae và được thêm vào sáo, bộ gõ và hoà âm. Kaneka thờng có ca từ mang tính chính trị và được hát bằng tiếng Drehu, Paici hoặc các ngôn ngữ Melanesia khác, hoặc bằng tiếng Pháp. Từ "kanak" cố định về mặt ngữ pháp. Tính ngữ chủng tộc tiếng Đức Kanake — nay được gắn cho toàn bộ người không phải da trắng, thậm chí là cả người Nam Âu trong một số trường hợp, và đặc biệt là cho người nhập cư Thổ Nhĩ Kỳ — cũng có chung nguồn gốc, và ban đầu được gắn ghép cho người đến từ các thuộc địa của Đức tại châu Đại Dương.

Lịch sử

Trước Thế chiến 2

right|upright|thumb|Tranh in thạch bản về người Kanak.

Người Melanesia định cư trên đảo chính của Nouvelle-Calédonie ít nhất là từ thời văn hoá Lapita. Tuy nhiên, chưa rõ về nguồn gốc của người Kanak. Người ta phát hiện được đá vỏ chai được chuyển đến từ New Guinea cùng với đồ gốm Lapita Nouvelle-Calédonie có niên đại sớm nhất. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng có bằng chứng về việc con người định cư tại Nouvelle-Calédonie có niên đại từ 3000 TCN (trước văn hóa Lapita đến 1500 năm), trong khi những người khác tuyên bố đã phát hiện được đồ gốm tiền Lapita. Vẫn còn vấn đề khác trong xác định nguồn gốc và lịch sử sơ khởi của người Kanak đó là giải thích theo khảo cổ học có mâu thuẫn với quan điểm của người Kanak và quan điểm này bị chính trị hoá sau thời thực dân.

Lịch sử sớm nhất của người châu Âu tại lãnh thổ là khi Thuyền trưởng James Cook của Anh đổ bộ lên các đảo này vào năm 1775, tại thời điểm đó có tường thuật rằng 70.000 người Kanak sống trên quần đảo. James Cook đặt tên "New Caledonia" cho các đảo theo tên gọi quê hương Scotland của ông trong tiếng La Tinh là Caledonia. Trong thời thực dân thế kỷ XIX, người Kanak được tuyển mộ hoặc bị bắt làm nô lệ để làm lao động phi tự do tại những nơi như Úc, California, Canada, Chile và Fiji. Trong vòng 3.000 năm, người Kanak sống tại các đảo hẻo lánh, họ không sẵn sàng trước các virut và vi khuẩn đến từ châu Âu. Người Kanak bị đẩy khỏi đất đai của mình và được thuê làm lao động ép buộc trên các đồn điền, trại chăn nuôi và công trình công cộng của người Pháp.

left|upright|thumb|Chiến binh Kanak, Khi người Kanak bị buộc phải chuyển đến các khu vực dành riêng cho họ trên đảo, nằm sát các dãy núi, họ chỉ còn chiếm giữ 10% diện tích lãnh thổ của tổ tiên trong khi đó dân số của họ giảm rất đột ngột do bệnh tật, và điều kiện sinh hoạt trở nên rất khắc nghiệt. Tình hình này dẫn đến việc chính phủ Pháp sau đó cho đưa 20.000 phạm nhân đến đảo từ năm 1864 đến năm 1897, hầu hết số người này định cư vĩnh viễn tại lãnh thổ, và họ được dùng đến để khai thác niken (từ năm 1864) và đồng từ năm 1875. Điều này khiến người Kanak hết sức oán giận, họ tiến hành khởi nghĩa vào năm 1878 chống thực dân Pháp, song bị đàn áp trước quân Pháp được vũ trang tốt hơn.

Năm 1981, phong trào độc lập bắt đầu, sau vụ ám sát tổng bí thư của Liên hiệp Calédonie là Pierre Declercq vào ngày 19 tháng 9 năm 1981. Một diễn đàn dân tộc mang tên "Mặt trận Giải phóng Dân tộc Kanak và Xã hội chủ nghĩa" (FLNKS) được lập ra vào năm 1984. Diễn đàn này từ chối tham gia vào Hội đồng Lãnh thổ và thậm chí tuyên bố chính phủ cấp tỉnh của họ; điều này bị người Pháp phản đối.

Phong trào Kanak đề xuất tự quản vào tháng 1 năm 1986. Tổng thống Mitterrand tuyên bố một hoả giải tạm thời, theo đó chuyển nhiều quyền tự trị hơn cho lãnh thổ. Tuy nhiên, Thủ tướng Pháp Jacques Chirac cho đóng quân trên quần đảo và vấn đề tự trị bị hoãn lại. Sau sự kiện, có phản ứng của quốc tế dẫn đến khởi động các đối thoại nhằm dàn xếp giữa chính phủ Pháp, người Kanak và người định cư gốc Pháp. Theo hiệp ước này, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được đề xuất tổ chức vào năm 1998. Tuy nhiên, hai thủ lĩnh Kanak ký vào hiệp ước là Jean-Marie Tjibaou và Yeiwene Yeiwene đã bị một nhà hoạt động Kanak ám sát vào ngày 4 tháng 5 năm 1989. Các nhà hoạt động độc lập Kanak không hài lòng trước tình thế mà họ cảm thấy rằng Pháp sẽ không bao giờ cho phép Nouvelle-Calédonie độc lập.

Một hiệp định tiếp theo mang tên "Hiệp định Nouméa", được kỳ kết giữa chủ tịch của FLNKS và chính phủ Pháp vào ngày 5 tháng 5 năm 1998, theo đó cho phép Nouvelle-Calédonie có tự trị nhất định trong một giai đoạn chuyển giao là 20 năm. Một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập khỏi Pháp sẽ được tổ chức trong khoảng 2014 và 2019. Các thay đổi cấp tiến được dự kiến của hiệp định này là kiểm soát và cấu trúc chính trị địa phương; người Kanak sẽ có tiếng nói lớn hơn về các vấn đề nội địa và khu vực còn Pháp duy trì các quyền chủ quyền như kiểm soát quân sự và ngoại giao. Con số này giảm còn 27.000 vào đầu thời thực dân do dịch bệnh. Người Kanak theo truyền thống gắn bó với các bộ lạc, gồm Bwaarhat, Tiendanite, Goa và Goosana, cũng như các thị tộc như Poowe.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ của người Kanak cực kỳ đa dạng, song tiếng Pháp giữ vị thế là ngôn ngữ chính thức của Nouvelle-Calédonie. Lãnh thổ có 28 ngôn ngữ Kanak riêng biệt, cùng nhiều phương ngữ, trong tổng số 1.200 ngôn ngữ Melanesia được nói khắp Thái Bình Dương. Các ngôn ngữ này không thể hiểu lẫn nhau. Chúng đều thuộc nhánh nhánh châu Đại Dương của ngữ hệ Nam Đảo. Ngoại trừ tiếng Fagauvea thuộc nhóm Polynesia thì các ngôn ngữ khác đều thuộc phân nhóm Nouvelle-Calédonie.

Các ngôn ngữ Nouvelle-Calédonie được phân thành vài nhóm. Nhóm ngôn ngữ miền Bắc có thanh điệu và gồm có 12 ngôn ngữ: Caac, Cemuhî, Fwâi, Jawe, Kumak, Nemi, Paicî, Pije, Pwaamei, Pwapwa, Yalayu, và Yuaga.

Tjibaou tham gia thành lập Écoles populaires kanak, thể chế này dạy bằng một ngôn ngữ Kanak địa phương và giáo dục trẻ em về kiến thức tinh thần và thực tiễn, bao gồm cả việc dạy tiếng Pháp và tiếng Anh. Kể từ 2006, trẻ em trước tuổi đến trường được trao cơ hội học các ngôn ngữ Kanak bản địa. Trong khi các ngôn ngữ Kanak được giảng dạy trong các trường trung học khắp quần đảo Loyauté và tỉnh Bắc, thì việc giáo dục ngôn ngữ này không phổ biến tại tỉnh Nam vốn có nhiều người gốc Âu hơn. Việc thiết lập Hovj viện Ngôn ngữ Kanak (KLA) là một điều khoản của Hiệp định Nouméa.

Tín ngưỡng

Người Kanak có tục lệ cúng bái tổ tiên, được thể hiện bằng mộ cổ, các phiến đá thiêng và các nền lò cầu nguyện nơi họ tiến hành cúng tế. Ngày nay, hầu hết người Kanak là tín đồ Cơ Đốc giáo. Tôn giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt của người Kanak. Người Kanak tham gia Giáo hội Công giáo tại Nouméa, và họ chiếm gần 50% số tín đồ Công giáo tại lãnh thổ, chỉ sau người gốc Âu. Ngoài ra, đa số tín đồ Tin Lành trong lãnh thổ là người Kanaks. do đó họ đối đãi với biển với lòng sùng kính nhất. Các truyện kể dân gian của người Kanak không chỉ chứng thực thực tế này mà còn được tuân theo nghiêm khắc với tư cách là luật bất thành văn. Một số khía cạnh quan trọng của luật truyền khẩu liên quan đến bảo vệ và bảo tồn môi trường, như kết thúc hoạt động đánh bắt khi lượng cá suy giảm, và quyền đánh cá tại các khu vực nhất định được người địa phương tuân thủ nghiêm ngặt với sự tôn trọng. Nó được làm từ rau củ thái lát như khoai môn, sắn, khoai lang và sữa dừa. Các nguyên liệu địa phương khác được sử dụng trong ẩm thực Kanak gồm Rousettus (dơi) và hươu địa phương; hải sản như cá tại phá và rặng san hô (gồm dawa), cùng với tôm cua. Đậu pata là đậu cô ve trồng tại địa phương, còn na, chanh và bột nghệ tây là các nguyên liệu địa phương khác.

Nghệ thuật Kanak trở nên phổ biến hơn kể từ thập niên 1990 với các nỗ lực của Cơ quan Phát triển Văn hoá Kanak ADCK. Các đồ gốm Lapita có niên đại từ 1500 TCN, về cơ bản đây là nghề thủ công của nữ giới và nó thường được trang trí bằng các kiểu mẫu hình học và mặt người cách điệu, song có khác biệt giữa đồ gốm miền bắc và miền nam. Nhiều cán và nước men có thiết kế rãnh được làm từ lược răng. Đồ gốm được làm từ đất sét trên các đảo. Hội họa là một dạng mỹ thuật gần đây và phổ biến trong các nữ nghệ sĩ. Các nghệ sĩ nổi tiếng như Yvette Bouquet từ Koumac tạo ra các bức tranh về đề tài Thái Bình Dương và châu Đại Dương, Paula Boi có các bức tranh với phong cảnh trừu tượng hơn, còn Denise Tuvouane và Maryline Thydjepache sử dụng các dạng nghệ thuật hỗn hợp. Các nhà chờ xe buýt là nơi phổ biến để minh hoạ các bức tranh của họ.

Điêu khắc gỗ đại diện tiêu biểu cho linh hồn của văn hoá Kanak, trong đó phổ biến nhất là flèche faîtière giống một cột vật tổ nhỏ có hình dáng mang tính tượng trưng. Một công trình kỷ niệm tôn giáo nhỏ giống kiểu Stonehenge gần làng tại L'Île-des-Pins thể hiện nghệ thuật chạm khắc tôn giáo. Các vật thể bằng gỗ khác gồm các dùi cui chiến tranh khắc từ loại gỗ cứng nhất, có hình dạng đầu dương vật (casse-tete), một dùi cui mỏ chim gây chết người (bec d'oiseau), và giáo làm từ cây niaouli được dùng để đốt nhà kẻ thù. Các cây gậy dài một mét có niên đại trong khoảng 1850-1920 được sử dụng làm lối vào một ngôi làng hoặc trong các nghi thức nhảy múa. Gậy được đốt để có lớp màu đen trên các phần chạm khắc; các thiết kế chạm khắc gồm hình ảnh hình học thực từ các điệu nhảy pilou, mô hình nông nghiệp hay quang cảnh làng. Chúng cũng được nhồi cỏ ma thuật để xua đuổi ma quỷ. Người Kanak làm xuồng từ các thân cây bị đục rỗng và rầm chìa tàu đôi lớn với buồm tam giác, gọi là pirogues, theo truyền thống được dùng để đánh cá. Mặt nạ bằng gỗ được làm từ các vật liệu địa phương như vỏ cây, lông và lá trang trí chúng tượng trưng cho một liên kết vật chất với thế giới vô hình. Lễ hội Nghệ thuật Thái Bình Dương được tổ chức mỗi bốn năm. Các vũ công được huấn luyện về nhảy múa truyền thống trong các hội thảo đặc biệt. Nhảy múa chào mừng được trình diễn rất phổ biến. Trong số các hình thức nhảy múa khác nhau, pilou-pilou là một điệu nhảy độc đáo của người Kanak, thuật lại nhiều câu chuyện của các thị tộc. Kiểu nhảy pilou-pilou của người Kanak nay hầu như biết mất, tên gọi của nó được đặt bởi các nhà truyền giáo Pháp.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kanak** (chính tả tiếng Pháp là **Canaque** trước 1984) là các cư dân Melanesia bản địa tại Nouvelle-Calédonie, một tập thể hải ngoại của Pháp tại vùng tây nam Thái Bình Dương. Theo điều tra
**Thủy điện An Khê – Kanak** là nhà máy thủy điện nằm tại Sông Ba, huyện Kbang và thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai; huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam. ## Nhà
DUMBO [3 & 7 & 10 & 12 & 16] anakku jaket kanak-kanak baju kanak-kanak kanak-kanak Lelaki pakaian 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 tahunKategori sumberOff-The-SHELFChim Cánh
DUMBO [3 & 7 & 10 & 12 & 16] anakku jaket kanak-kanak baju kanak-kanak kanak-kanak Lelaki pakaian 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 tahunKategori sumberOff-The-SHELFChim Cánh
Dumbo [3 & 7 & 10 & 12 & 16] Áo khoác trẻ em anakku baju kanak kanak Lelaki setbaju anak Lelaki anakku Official Store quần áo trẻ em bé trai 3 4 5 6
Dumbo [3 & 7 & 10 & 12 & 16] Áo khoác trẻ em anakku baju kanak kanak Lelaki setbaju anak Lelaki anakku Official Store quần áo trẻ em bé trai 3 4 5 6
Dumbo [3 & 7 & 10 & 12 & 16] Áo khoác trẻ em anakku baju kanak kanak Lelaki setbaju anak Lelaki anakku Official Store quần áo trẻ em bé trai 3 4 5 6
Dumbo【 3 ~ 6_7 ~ 10 _ 11 ~ 16 năm】 Áo phông Bộ quần áo nam bé trai dài tay baju budak Lelaki baju Baby Boy Bộ quần áo bé trai 6_12 quần áo
**Kaan Kanak** (sinh 6 tháng 10 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, đang chuyển nhượng tự do, thi đấu ở vị trí hậu vệ phải. ## Sự nghiệp quốc tế
DDJN【 3 ~ 6,7 ~ 10,11 ~ 16 Years】Kids Seluar Remaja Lelaki Pakaian Shawl Musim Panas Kanak-Kanak Nyamuk Seluar Kapas Dan Linen Timbul Kanak-Kanak Kapas Panjang Kasual seluar kanak-kanak kanak-kanak cậu bé pendek seluar vải
DUMBO【 3 ~ 6_7 ~ 10_11 ~ 16 years】T Baju Baju lelaki lelaki lengan panjang Bayi boy pakaian set pakaian Baju Baju Baju Baju budak lelaki Baju Baju Baju bayi lelaki 6_12 boy pakaian set
DUMBO【 3 ~ 6_7 ~ 10_11 ~ 16 years】T Baju Baju lelaki lelaki lengan panjang Bayi boy pakaian set pakaian Baju Baju Baju Baju budak lelaki Baju Baju Baju bayi lelaki 6_12 boy pakaian set
Bộ Quà Tặng bình sữa cho bé sơ sinh PPSU Cốc tập luyện cho bé học uống 3 trong 1 chức năngKanak-kanak tadika comel với cawan Air Plastik taliKanak-kanak tadika botol Air melatun penutup botol
Đăng ký chơi chữ kanak-kanak kapas tulen tititik gam Anti licir tiga dimensi kartun có sẵn cho 0-3 năm.Cỡ S phù hợp cho 0-1 tuổi; cỡ M phù hợp cho 1-3 năm.
Kanak-kanak berdandan aksesori rambut krismas mewah Siri kartun comel Yang Suka bermain Sila hubungi Kami JIKA và Linh Dương
Nama produk: mangkuk kanak-kanak keluli tahan Karat Bahan: PP + keluli tahan Karat Saiz produk: d11.5 * 5.5cm Saiz pembungkusan: 61*38*47cm Kapasiti: 300ml Gram berat: 95g Aksesori: tudung Pembungkusan konvensional: BEG OPP
Đăng ký chơi chữ kanak-kanak kapas tulen tititik gam Anti licir tiga dimensi kartun có sẵn cho 0-3 năm.Cỡ S phù hợp cho 0-1 tuổi; cỡ M phù hợp cho 1-3 năm.
3 ~ 6 7 ~ 10 11 ~ 16 năm 2021 Áo len chui đầu dài tay mới trẻ em của giản dị cổ tròn T-Shirt Quần áo bé trai Bộ Baju budak Lelaki baju