✨Kamov Ka-50
Kamov Ka-50 "Cá mập đen" (; Chornaya Akula, tên ký hiệu của NATO: Hokum A) là loại trực thăng tấn công một chỗ ngồi của Nga, sử dụng hệ thống cánh quạt nâng đồng trục của phòng thiết kế Kamov. Quá trình thiết kế của Ka-50 bắt đầu từ những năm 1980, và nó chính thức phục vụ trong quân đội Nga vào năm 1995. Nó được sản xuất bởi nhà máy "Tiến bộ" tại Arsenyev. Chức năng của máy bay này là trực thăng trinh sát/tấn công vũ trang hạng nặng. Hiện nay, Ka-50 đã bị ngưng sản xuất và người Nga chuyển sang chế tạo trực thăng Ka-52.
Kamov Ka-50/52 là loại trực thăng tấn công đầu tiên trên thế giới sử dụng hệ thống hai cánh quạt quay đồng trục và là trực thăng đầu tiên trên thế giới sử dụng ghế phóng thoát hiểm cho phi công.
Phát triển
Lịch sử phát triển của Ka-50 bắt đầu từ nửa cuối thập niên 1970, khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ký quyết định yêu cầu Kamov và Mil cạnh tranh với nhau thiết kế một mẫu trực thăng mới.
Ka-50 là phiên bản sản xuất của mẫu thử nghiệm V-80Sh-1. Chuyến bay thử đầu tiên bắt đầu từ năm 1982. Trong thời gian này, V-80 gặp phải sự cạnh tranh từ các mẫu thử nghiệm của Mi-28 bên phòng thiết kế Mil. Sau nhiều thử nghiệm khác nhau, tháng 10 năm 1984, phía quân đội đã quyết định lựa chọn V-80 làm mẫu trực thăng sản xuất đại trà. Yêu cầu sản xuất trực thăng được phê chuẩn bởi Hội đồng Bộ trưởng Xô Viết vào ngày 14 tháng 12 năm 1987. Sau những đợt bay thử nghiệm, lô hàng đầu tiên đã được yêu cầu cung cấp cho quân đội vào năm 1990. Loại trực thăng này được công bố chính thức lần đầu với cái tên Ka-50 vào một cuộc triển lãm ở Anh vào tháng 3 năm 1992.
Đặc điểm
Thiết kế
Kamov Ka-50 là loại trực thăng sử dụng hai cánh quạt nâng đồng trục với hai "cánh ngang" thẳng để treo vũ khí và phần đuôi kéo dài. Nhiều đặc điểm đặc trưng đã được tích hợp để nâng cao sức chiến đấu và giảm chi phí. Ka-50 được thiết kế để tác chiến độc lập và có khả năng hoạt động suốt 2 tuần liền mà không cần đến sự giúp đỡ của các đơn vị hậu cần tại mặt đất.
Thân trực thăng thiết kế kiểu đặc trưng của máy bay, bao hàm một lượng lớn vật liệu tổng hợp (lên đến 30 - 35% khối lượng) và hợp kim nhôm. Việc sử dụng nhiều vật liệu tổng hợp polymer như vậy giúp giảm bớt cân nặng của máy bay tới 20 - 30%, tăng cường độ tin cậy, khả năng sống sót, tuổi thọ của máy bay từ 2 tới 2,5 lần, giảm sự khó khăn trong việc thực hiện các động tác bay thao diễn phức tạp từ 1,5 đến 3 lần (bằng cách làm giảm số lượng chi tiết máy bay, giảm số đinh tán và mối nối), giảm sự phức tạp trong việc lắp ráp đến 2 lần.
Về mặt kỹ thuật, thân máy bay được chia làm ba phần: đầu, sau và đuôi. Kính ở cửa sổ trước và sau được làm bằng kính chống đạn, còn kính ở cửa sổ trước, cửa sổ trên và kính ở cửa ra vào được làm bằng thủy tinh plexiglas (polimetylmetacrylat). Ở bên trái buồng lái và cửa sập bên phải có then cài sử dụng thuốc nổ, dùng trong trường hợp khẩn cấp. Ở bên phải, phía trên cửa sổ có tích hợp hệ thống thoát hiểm khẩn cấp điều khiển bằng tay. có thể mang đến 2000 kg vũ khí ở 2 cánh.
Trực thăng sử dụng hai hàng bánh đáp, khi bay thì được xếp gọn lại, khi hạ cánh sẽ bung ra. Hai bánh đáp trước có kích thước 400 × 150 mm, có khả năng quay đổi hướng để "lái" và tích hợp hệ thống giảm xóc tay lái, khi bay thì thu vào nằm gọn trong một khoang trong lòng thân. Hai bánh đáp sau cách nhau 2,6 mét, có kích thước 700 × 250 mm, khi thu gọn lại thì được gấp vào sát phần đáy phía sau của thân. Chiều dài cơ sở (khoảng cách giữa trục bánh trước và trục bánh sau) là 4,91 mét. Hệ thống treo của Ka-50 sử dụng bộ phận giảm xóc "cộng hưởng nền đất", khi lực đáp vượt quá giới hạn chịu đựng thì sẽ tự gãy vỡ mà không làm hại đến các bộ phận khác của máy bay. Nếu như bánh đáp không kịp bung ra, trực thăng có thể đáp khẩn cấp bằng bụng, lúc đó một hệ thống khoang tổ ong phía dưới sẽ che đỡ cho phi công khỏi va chấn, và tỉ lệ phương diện (tỉ số giữa chiều ngang và chiều cao) rất lớn của hai cánh bên giúp máy bay không bị lật nhào.. Mỗi động cơ nằm trong một khoang và chúng được đặt nằm ngang hai bên thân máy bay để tăng khả năng sống sót và giảm nguy cơ hai động cơ cùng một lúc đều bị tấn công.. Mỗi tầng cánh quạt bao gồm 3 cánh, đường kính 14,5 mét. cánh quạt có hình chữ nhật (dây cung dài 0,35 mét), bao hàm một thân rỗng có độ cong thay đổi tùy vị trí, kết nối với phần đuôi, vỏ và gờ cong được làm từ các tấm gỗ ép cứng. Đầu cánh quạt cụp xuống, có thể chịu được đạn 20mm, và trang bị hệ thống sử dụng thuốc phóng để thoát hiểm cho phi công.
Hệ thống điện tử, điều khiển và liên lạc
Ka-50 sử dụng hệ thống điều khiển bay, tầm nhìn và định hướng "Rubikcon" (K-041). Hệ thống này cung cấp thông tin về toạ độ, vận tốc và hướng bay cho phi công. Bộ nhớ của hệ thống cũng lưu trữ các thông tin về vị trí sân bay, đường đi, mục tiêu và đích đến. Người Nga quyết định không sử dụng khẩu GSh-30-1 truyền thống do V. P. Gryazev thiết kế vì khẩu này có mức độ tin cậy kém trong các điều kiện nhiều bụi bặm hoặc trong chế độ bay chậm khiến ít có gió thổi vào làm mát nòng súng. Đại bác được đặt ở phần giữa của máy bay giúp tăng độ chính xác trong khi bắn, với độ chính xác khi nhắm mục tiêu là khoảng 1-2 miliradian (gấp 4 lần so với pháo của AH-64A). Đại bác có thể quay ngang từ -2 đến 9 độ và quay dọc từ 3 đến -37 độ. Mức độ cân bằng tĩnh cao trong quá trình bay cũng như khả năng cơ động cực cao của Ka-50 giúp cho việc ngắm bắn không quá khó khăn và người xạ thủ có thể bắn trúng mục tiêu ở khoảng cách 4 km, đủ để không lọt vào tầm ngắm của hệ thống phòng không tầm gần của địch quân. Nhiều phiên bản đã được thử nghiệm, một phần trong số đó thì thiết bị "Shkval" được tích hợp thêm hệ thống hiển thị ảnh nhiệt, một số khác dùng hẳn thiết bị nhìn ngày-đêm mới là "Samshit" (cũng được sử dụng trên Ka-52). Một số ứng cử viên cho thiết bị nhìn đêm bao gồm cả các sản phẩm của các công ty Pháp là SAGEM và Thomson. Các sản phẩm ngoại quốc được xem xét như là giải pháp tạm thời cho các thiết bị nhìn đêm nội địa với tiến độ phát triển còn chậm.
Hai phiên bản máy bay đã giành chiến thắng chung cuộc sau các cuộc thử nghiệm, đó là: Ka-50N ("Nochnoy/Night") và Ka-50Sh ("Shar/Sphere", vì thiết bị nhìn đêm có hình cầu). Chiếc Ka-50Sh là mẫu thử nghiệm thứ 8 trước khi sản xuất; nó bay thử lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 3 năm 1997. Biểu trưng của Kamov được sơn trên phần đuôi của máy bay. Ka-50Sh sử dụng hệ thống nhìn đêm Samshit-50 nằm trong một cái vỏ hình cầu có đường kính 640 mm (25 in) lắp đặt dưới mũi. The Ka-50-2 có buồng lái 2 chỗ ngồi trước-sau, sử dụng buồng lái màn hình tinh thể lỏng (glass cockpit) do Israel sản xuất và một pháo 30mm có thể thu gọn lại trong tháp pháo ở dưới mũi máy bay (thay cho pháo cố định ở Ka-50 nguyên gốc). Nó sử dụng các thiết bị điện tử đã được kiểm chứng qua thực chiến cùng các tên lửa chống tăng dẫn hướng hiện đại để nâng cao hiệu suất chiến đấu. Trực thăng này có khả năng bay thao diễn xuất sắc và khả năng sống sót cao nhờ vào hệ thống cánh quạt quay đồng trục. Ka-50-2 Edrogan cũng được tích hợp bộ thiệt bị điện tử môđun linh hoạt của Israel, có thể được chỉnh sửa để phù hợp nhu cầu tác chiến của Thổ Nhĩ Kỳ và mang tiềm năng phát triển khá lớn.
Ka-52
thumb|right|Ka-52 số hiệu "061", Zhukovski, 2009 thumb|Ka-52 tại căn cứ không quân Torzhok
Trong đầu thập niên 1980, khi các thử nghiệm so sánh về V-80 (phiên bản thử nghiệm của Ka-50) và Mi-28 vẫn còn đang thực hiện, phòng thiết kế Kamov đã đề xuất một sự án thiết kế một loại trực thăng chuyên dùng trong việc trinh sát, định vị mục tiêu, hỗ trợ và phối hợp với các trực thăng tấn công chủ lực. Tuy nhiên, những khó khăn về kinh tế từ cuối những năm 1980 khiến kế hoạch này gặp nhiều trở ngại và để tiết kiệm chi phí, thay vì thiết kế một mẫu hoàn toàn mới, Kamov đã chọn phương án cải sửa thiết kế Ka-50 có sẵn để tích hợp các hệ thống do thám và xác định mục tiêu. Phiên bản Ka-50 cải sửa này yêu cầu phải có thêm một phi công đảm nhiệm công tác vận hành các thiết bị do thám đó, và Kamov đã thiết kế lại buồng lái từ một chỗ ngồi thành hai chỗ ngồi bên cạnh nhau, kiểu buồng lái này được kiểm chứng là giúp cải thiện sự tương tác và phối hợp giữa hai phi công với nhau. Phiên bản cải sửa hai chỗ ngồi này về sau được đặt cho cái tên chính thức là Ka-52. Hai cánh của Ka-52 mang 6 điểm treo vũ khí thay vì 4 ở Ka-50. Việc bố trí hai buồng lái ngồi song song khiến tính khí động học của thiết kế máy bay giảm đi rệt, và choán chỗ của số đạn dược trong máy bay. Vì vậy, để khối lượng và khả năng tác chiến ngang bằng với Ka-50, thiết kế của Ka-52 đã hy sinh một số ưu điểm thí dụ như giảm số đạn dược của súng chính và giảm mức độ bọc giáp, ví dụ như số đạn pháo 30mm bị giảm từ 470 viên xuống chỉ còn 240 viên. Khả năng bay của Ka-52 đã bị giảm đi so với Ka-50, ví dụ như tốc độ nâng hạ độ cao giảm từ 10m/giây xuống còn 8m/giây, sức nâng tải trọng G tối đa giảm từ 3,5g xuống còn 3g, và trần bay giảm từ 4.000 mét xuống còn 3.600 mét. Ka-52 có thể hoạt động vào ban ngày lẫn ban đêm và cả trong điều kiện khí tượng học bất lợi.
Dàn khung của chiếc Ka-52 đầu tiên được chế tạo từ giữa năm 1996 Trung đoàn Trực thăng Huấn luyện và Nghiên cứu số 696 đóng tại căn cứ không quân Torzhok đã nhận được 8 chiếc thử nghiệm với khả năng và thiết kế khác nhau nhằm mục đích nghiên cứu và phát triển thiết kế của mẫu trực thăng này.
Giai đoạn đầu tiên của quá trình thử nghiệm chính thức (ГСИ) kết thúc vào tháng 12 năm 2008 và loạt Ka-52 thử nghiệm tiếp theo được sản xuất cho giai đoạn 2 với nội dung bao hàm thử nghiệm về khả năng bắn và định vị mục tiêu. Hiện nay, Ka-52 đã hoàn tất xong các thử nghiệm cấp quốc gia, và chiếc trực thăng hoàn chỉnh thứ 4 đã được bàn giao cho Không quân Nga vào ngày 10 tháng 2 năm 2011. Theo kế hoạch mua sắm vũ khí của chính phủ, cho đến năm 2012 quân đội Nga sẽ nhận được 30 chiếc Ka-52. Đơn hàng thứ 2 tổng cộng 36 chiếc sẽ được đưa vào sử dụng cũng vào đầu năm 2012., các trực thăng này sẽ phiên chế vào các đội bay vốn bao hàm 8 trực thăng tấn công và 8 trực thăng vận tải/chiến đấu. Phiên bản dành cho hải quân của Ka-52 đã được chọn làm trực thăng tấn công cho lực lượng hàng không hải quân Nga, phiên bản này sẽ bao gồm cánh quạt quay và cánh mang vũ khí gấp gọn được, cùng với hệ thống duy trì sự sống cho các phi công, vốn mặc trên người bộ quần áo bảo hộ chống lạnh và chống thấm nước. Thân máy bay và các hệ thống sẽ được xử lý để chịu ăn mòn hóa học, máy bay cũng sẽ mang theo một rađa điều kiển bắn kiểu mới có khả năng hoạt động trong điều kiện tác chiến đặc trưng trên biển và hỗ trợ các tên lửa diệt hạm. Số lượng Ka-52 mà Hải quân Nga yêu cầu sẽ không ít hơn 40 chiếc, loạt đầu tiên dự kiến sẽ có mặt trong hải quân nga vào cuối năm 2014 hay đầu năm 2015, cùng thời điểm với lúc người Nga nhận được các tàu chiến chứa chúng.
Tuy nhiên, sau khi Nga sáp nhập Krym năm 2014, hợp đồng Mistral bị hủy và các Mistral lỡ duyên này được bán cho Ai Cập. Ai Cập đang đàm phán với Nga để mua Ka-52 biên chế trên các tàu Mistral vừa mua.
Lịch sử chiến đấu
thumb|Một cặp trực thăng Ka-50 bay trên bầu trời Moskva.
Ka-50 tham chiến trong quân đội Nga trong cuộc chiến tranh Chechnya nhằm chống lại lực lượng ly khai tại vùng này. Hai chiếc trực thăng Ka-50 số hiệu 24 và 25 đã được đưa đến Chechnya vào tháng 12 năm 2000, cùng với nó là trực thăng Kamov Ka-29 làm nhiệm vụ trinh sát và hỗ trợ xác định mục tiêu. Ngày 6 tháng 1 năm 2001, Ka-50 lần đầu tiên sử dụng vũ khí thật tham gia thực chiến. Vào ngày 9 tháng 1, tại lối vào ở một hẻm núi gần khu dân cư Komsomolskoye, một trực thăng Ka-50, hỗ trợ bởi một trực thăng Mi-24, đã sử dụng tên lửa S-8 phá hủy một nhà kho chứa đạn dược của quân ly khai Chechnya. Ngày 6 tháng 2, một nhóm tác chiến gồm 2 trực thăng Ka-50 và một trực thăng Ka-29 phát hiện ra một vị trí đóng quân của quân Chechnya nằm trong một vùng núi bao phủ bởi rừng ở phía Nam làng Tsentoroj, và từ khoảng cách 3 cây số đã dùng hai tên lửa dẫn hướng 9K121 Vikhr để tiêu diệt mục tiêu. Ngày 14 tháng 2, một nhóm chiến đấu tương tự cũng thực hiện các nhiệm vụ "tìm diệt" ở vùng Oak-Yurt và Hatun. Trong các điều kiện tác chiến khó khăn, phi công đã phát hiện và tiêu diệt 8 mục tiêu. Các hoạt động tác chiến này có thể coi là "phép thử" đối với thiết kế, hệ thống điện tử và vũ khí của Ka-50. Hoạt động hiệu quả của nó trong các điều kiện khó khăn, nhiều đồi núi cho thấy sự thành công của nhiều đặc tính thiết kế của Ka-50, ví dụ như khả năng di chuyển linh hoạt.
Ka-50 đã thực hiện tổng cộng 49 phi vụ (số 24: 36; số 25: 13), bắn hơn 100 tên lửa không điều khiển trong tổng số 929 tên lửa, 69 loại đạt bác (1600 viên đạn) và 3 tên lửa chống tăng dẫn hướng Vikhir. Các mục tiêu được tiêu diệt tương đối khá tốt. Nhìn chung kết quả hoạt động ban đầu của Ka-50 và Ka-29 trong thời gian đó được đánh giá là tích cực, với khả năng chiến đấu đã được chứng thực. Nên nhớ các trực thăng Ka-50 tại Chechnya đã tác chiến trong điều kiện thời tiết khó khăn và ở vùng cao nguyên, nhiều đồi núi, tầm nhìn hạn chế cộng với hệ thống phòng không của đối phương vẫn đang hoạt động. Ka-50 đã thể hiện độ tin cậy và hiệu năng cao, dễ bảo trì sửa chữa. Lực đẩy lớn, khả năng cơ động linh hoạt, khả năng thay đổi độ cao và hệ thống cánh quạt nâng đồng trục là một ưu thế của Ka-50 trong điều kiện đồi núi với tầm nhìn hạn chế và gió thổi ngang rất mạnh. Thiết bị thoát hiểm cũng có tác động tích cực đến tâm lý của phi công, cộng thêm mức độ tự động hóa cao trong việc điều khiển bay đã làm giảm đáng kể căng thẳng của người lái Năm 2005 Tổng tham mưu trưởng quân đội Nga, Đại tướng Yuriy Nikolayevich Baluyevskiy cũng tuyên bố Ka-50 và Ka-52 là trực thăng cần thiết cho các lực lượng đặc biệt còn Mi-28N là trực thăng chính của quân đội. Tuy nhiên việc sản xuất Ka-50 đã ngưng từ tháng 1 năm 2009, nhương chỗ cho kế hoạch sản xuất đại trà Ka-52.
Chưa được rõ liệu Ka-50 đã tham gia các hoạt động thực chiến khác nào nữa không. Nhưng nó đã tham gia một số đợt diễn tập, bao gồm chiến dịch diễn tập "Biên cương 2004" tại vùng núi Hoa nhung tuyết ở Kyrgyzstan vào tháng 8 năm 2004. Trong buổi diễn tập đó, Ka-50 thể hiện khá tốt, có thể hoạt động ở độ cao lớn và nhiệt độ hơn 30 °C. Một chiếc Ka-50 đã thực hiện nhiệm vụ yểm hộ cho một đợt đổ quân, và đã xử lý tốt các mục tiêu trên mặt đất bằng đại bác và tên lửa.
Đặc điểm kỹ thuật (Ka-50)
Tập tin:Kamov Ka-50 Hokum graphic.gif
- Đội bay: 1 người
- Chiều dài: 13,50 m (44 ft 3 in)
- Sải cánh: 2 x 14,50 m (2 x 47 ft 7 in)
- Chiều cao: 5,4 m (17 ft 9 in)
- Diện tích cánh quạt: 330,3 m² (3555 ft²)
- Trọng lượng rỗng: 7800 kg (17200 lb)
- Trọng lượng chất tải: 9800 kg (21600 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 10400 kg (22930 lb)
- Động cơ (cánh quạt): Klimov TV3-117VK
- Kiểu cánh quạt: turbine trục
- Số lượng cánh quạt: 2
- Công suất: 1660 kW (2226 hp)
- Tốc độ tối đa: 350 km/h (217 mph)
- Tầm hoạt động: 1160 km (720 dặm)
- Trần bay: 5500 m (18000 ft)
- Tốc độ lên cao: 10 m/s (1970 ft/phút)
- Chất tải: 30 kg/m² (6 lb/ft²)
- Công suất/khối lượng: 0,33 kW/kg (0,20 hp/lb) Trang bị vũ khí:
- 1 pháo Shipunov 2A42 30 mm.
- Có thể mang nhiều loại vũ khí gồm hai giá súng 2 nòng 23 mm (940 viên mỗi nòng), 12 tên lửa AT-16 Vikhr ATGM, 2 tên lửa Vympel R-73 (NATO: AA-11 Archer), 40 x 80 mm (3,2 in) rocket trong 2 giá, 4 x 500 kg (1100 lb) bom, 500 l (130 US gal) thùng nhiên liệu ngoài.
Nước sử dụng
- : 11 chiếc được sử dụng trong Không quân Nga, tất cả đều thuộc Trung tâm Tác chiến và Huấn luyện Hoán chuyển số 344 (344-го ЦБП и ПЛС АА). Đến năm 2011 thì chỉ còn 6 chiếc hoạt động, số còn lại bị thải loại hay chuyển sang sử dụng để huấn luyện.